Kinh nghiệm giải quyết án tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Hải Phòng
Trong 05 năm (từ ngày 01/12/2015 đến ngày 30/11/2020),
tổng số các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng thụ lý giải
quyết là 6.211 vụ/10.093 bị can. Trong đó, án ma túy là 2.317 vụ/2.976 bị can
chiếm 37% tổng số án hình sự của thành phố, chủ yếu là các tội Mua bán trái
phép chất ma túy, Tàng trữ trái phép chất ma túy, Vận chuyển trái phép chất ma
túy, Sản xuất trái phép chất ma túy… Riêng tội Tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy do còn có nhiều vướng mắc, có nhiều quan điểm khác nhau về đánh giá chứng
cứ nên mặc dù số lượng các vụ việc bị phát hiện nhiều nhưng những vụ việc bị khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử lại hạn chế, chỉ có 89 vụ/241 bị can chiếm 3,8% tổng
số án ma túy thành phố thụ lý giải quyết[1]. Xem xét nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, chúng
tôi thấy có nhiều lý do khác nhau, đó là: Về căn cứ pháp luật, so sánh các quy
định tại Điều 198 BLHS năm 1999 Bộ luật Hình sự (BLHS) và Điều 255 BLHS năm
2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 hầu như không thay đổi, chỉ chỉnh sửa về thể thức,
kỹ thuật cho phù hợp với tinh thần chung[2]. Trong nhiều năm qua, hệ thống văn bản hướng dẫn dưới
luật tội ma túy nói chung và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nói
riêng chưa được quan tâm đúng mực. Đến thời điểm
hiện tại chỉ có Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007
của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma
túy” (Thông tư liên tịch số 17/2007) và Thông tư liên tịch số
08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 của Liên ngành Trung ương sửa
đổi bổ sung Thông tư liên tịch số 17/2007 nêu trên (Thông tư liên tịch số
08/2015) đều hướng dẫn các quy định về tội phạm ma túy được quy định trong BLHS
năm 1999. Từ khi BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2018 đến nay đã hơn 03 năm nhưng Liên ngành Trung ương chưa có văn bản
mới hướng dẫn các quy định về tội phạm ma túy. Trong năm 2020, Tòa án nhân dân
tối cao ban hành Công văn 89 ngày 30/6/2020 Thông
báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử, trong đó có
một số nội dung hướng dẫn về nhóm tội ma túy, tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy (tại phần I - Hình sự - các mục 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7). Viện kiểm sát nhân
dân tối cao cũng ban hành văn bản Giải đáp về những khó khăn vướng mắc - Kỷ yếu
Hội nghị tập huấn trực tuyến công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
hình sự ngày 12/11/2020 trong đó có một số hướng
dẫn về nhóm tội phạm ma túy (tại Phần I - Các tội phạm, mục 18, 19, 20). Các
văn bản đơn ngành của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao
chủ yếu giải đáp các vướng mắc trong quá trình xét xử án hình sự đối với trường
hợp người “cung cấp chất ma túy cho người khác sử dụng” có là đồng phạm trong tội
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy hay không… còn các vấn đề khác liên quan
đến việc xác định các yếu tố cấu thành tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy hầu hết vẫn áp dụng tinh thần các quy định tại Thông tư liên tịch số
17/2007. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khó khăn trong việc xử lý các đối
tượng có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Bên cạnh đó, việc xác định người nghiện ma túy cũng gặp rất nhiều khó khăn do trong một
thời gian dài rất ít các bác sỹ, y sĩ ở các cơ sở y tế có thẩm quyền xác định người
nghiện ma túy được đào tạo, cấp chứng chỉ tập huấn về điều trị cắt cơn nghiện
ma túy [3]. Cùng
với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngày càng xuất hiện nhiều loại ma túy
tổng hợp mới được chào bán trên thị trường. Việc xác định các dấu hiệu đặc trưng
của người nghiện ma túy đối với những loại ma túy mới này cũng gặp rất nhiều
khó khăn, mất nhiều thời gian. Bởi lẽ, chính các cơ sở y tế chuyên khoa điều trị
cắt cơn nghiện cũng chưa được cập nhật thông tin về những dấu hiệu đặc trưng của
từng loại ma túy mới, đặc biệt là ma túy tổng hợp. Họ cần có thời gian để
nghiên cứu, theo dõi, phát hiện các biểu hiện lâm sàng của người bệnh trong quá
trình điều trị nên có những giai đoạn khi Cục quản lý khám, chữa bệnh của Bộ Y
tế chưa công bố các dấu hiệu đặc trưng của tình trạng nghiện loại ma túy cụ thể
hoặc chưa đào tạo việc nhận biết các dấu hiệu đặc trưng tình trạng nghiện chất
ma túy mới các cơ sở cai nghiện [4]… thì việc xác định tình trạng nghiện ma túy không thực hiện
được.
Một trong những nguyên nhân khác là do kỹ năng điều tra, thu
thập tài liệu, dấu vết, vật chứng của Điều tra viên (ĐTV) chưa thực hiện đúng
các quy định của BLTTHS nên nhiều vụ việc Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
bị phát hiện có rất đông đối tượng nhưng không thể xử lý hình sự được. Việc khám
xét, thu giữ vật chứng không kịp thời (các đối tượng đã sử dụng hết ma túy nhưng
không thu giữ các dụng cụ sử dụng còn bám dính ma túy để giám định hoặc các đối
tượng đã tẩu tán, dọn dẹp sạch sẽ hiện trường, không còn dấu hiệu việc tổ chức
sử dụng ma túy). Việc xét nghiệm nhanh cho các đối tượng sử dụng ma túy chưa
được chú trọng, không tiến hành test thử ngay sau khi bắt giữ các đối tượng mà
tiến hành các hoạt động điều tra khác trước, nên sau thời gian nhất định cơ thể người
sử dụng ma túy đã đào thải chất ma túy, kết quả xét nghiệm không chính xác, thiếu
khách quan, nên việc xác định tình trạng nghiện ma túy không kịp thời.
Trình tự thủ tục đưa người đi xác định tình trạng nghiện còn rườm rà, chồng
chéo; có nhiều đối tượng là người chưa thành niên, phụ nữ có thai không được tiếp
nhận vào cơ sở cai nghiện để xác định tình trạng nghiện do chưa có quy định, hướng
dẫn về những đối tượng đặc biệt này. Do đó, hầu hết các vụ việc đều phải tạm dừng
điều tra xác minh tin báo, chờ hướng dẫn của cấp trên nên cơ quan Công an không
“nhiệt tình” truy bắt nhóm tội phạm này. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đang diễn ra
tương đối phổ biến trong thời gian vừa qua.
Thông qua việc giải quyết các vụ án hình
sự về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Hải
Phòng, chúng tôi tổng hợp một số kinh nghiệm giải quyết và những khó khăn, vướng
mắc cụ thể như sau:
1.
Một số kinh nghiệm trong quá trình giải quyết án Tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy
1.1 Kiểm sát viên cần chủ động nắm bắt, tiếp
cận thông tin vụ việc và hồ sơ ban đầu ở giai đoạn tin báo, tố giác tội phạm
Một trong những đặc trưng của nhóm tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy là có nhiều đối tượng cùng thực hiện hành vi phạm tội, các đối
tượng này đều vừa sử dụng ma túy xong nên trạng thái tinh thần thường không ổn
định, việc khai báo ban đầu chưa chính xác. Ngay sau khi đưa các đối tượng về
trụ sở lập biên bản (tùy từng trường hợp có thể là biên bản bắt người có hành
vi phạm tội quả tang hoặc biên bản tiếp nhận nguồn tin tố giác tội phạm), Cơ
quan điều tra chủ động thông báo cho Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp để cử Kiểm
sát viên (KSV) tiếp cận nội dung vụ việc ngay từ đầu. Giai đoạn này, cần chú ý
một số hoạt động cụ thể như sau:
- Một
là, xác định tình trạng nghiện ma túy
của các đối tượng bị bắt giữ. Đây là căn cứ quan trọng, quyết định hành vi của
các đối tượng có cấu thành tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy hay không
nên ngay sau khi hành vi phạm tội của các đối tượng bị phát hiện, cơ quan điều
tra khẩn trương tiến hành xét nghiệm nhanh tình trạng sử dụng ma túy của các đối
tượng và đưa họ đi xác định tình trạng nghiện tại các cơ sở cai nghiện. Thời
gian xác định tình trạng nghiện ma túy khoảng từ 5-7 ngày tùy loại ma túy mà
các đối tượng sử dụng nên khi nghiên cứu hồ sơ ban đầu KSV cần chú ý các “biên
bản đầu vào” được cơ quan điều tra thiết lập để tránh sai sót, dẫn đến tình trạng
tạm giữ hình sự sau trả tự do hoặc xử lý hành chính. Do khoảng thời gian xác định
tình trạng nghiện tương đối dài nên đối với những vụ việc bị phát hiện có nhiều
hành vi phạm tội, ngoài dấu hiệu tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy còn
có dấu hiệu của tội phạm khác như Mua bán, Tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc
Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy thì Cơ quan điều tra tiến hành lập
biên bản bắt người phạm tội quả tang để sau 24 giờ sẽ tiến hành khởi tố vụ án,
đưa các đối tượng liên quan vào tạm giữ hình sự về những hành vi khác trước, chờ
có kết quả xác định tình trạng nghiện ma túy sẽ khởi tố tội Tổ chức sử dụng
trái phép chất ma túy sau. Đối với những vụ việc chỉ có một hành vi Tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy thì Cơ quan điều tra sẽ lập biên bản tiếp nhận nguồn
tin tố giác tội phạm, để có thời gian chờ kết quả xác định tình trạng nghiện ma
túy và thu thập các tài liệu chứng cứ khác chứng minh các dấu hiệu đặc trưng cấu
thành tội phạm làm căn cứ khởi tố hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự.
- Hai là, tiếp cận
thông tin vụ việc nhanh chóng, tổng hợp tài liệu, chứng cứ để đánh giá, phân loại
các đối tượng liên quan. Khi nhận được thông tin từ cơ quan điều tra, tùy từng
tính chất phức tạp của vụ việc, lãnh đạo VKS cùng cấp có thể cử một hoặc nhiều
KSV phối hợp cùng ĐTV hỏi, ghi lời khai làm rõ hành vi cụ thể của từng đối tượng.
Giai đoạn này việc ghi lời khai thuộc trách nhiệm của ĐTV, cán bộ điều tra. KSV
chỉ tham gia hỏi cùng ĐTV, cán bộ điều tra nhưng không trực tiếp ghi lời khai của
các đối tượng (không có tên trong biên bản điều tra). KSV cần ghi chép tóm tắt
hành vi của từng đối tượng vào sổ tay của mình để tổng hợp, đối chiếu và báo
cáo lãnh đạo Viện khi đánh giá chứng cứ phân loại các đối tượng trước khi
đưa vào tạm giữ hình sự.
- Ba
là, KSV cần kiểm tra tính khách quan,
trung thực trong việc khai báo ban đầu của các đối tượng. Các đối tượng thực
hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thường đông người, có thể
quen biết nhau hoặc không biết nhau. Khi nghiên cứu hồ sơ ban đầu, KSV cần chú
ý mối quan hệ của những người này để xác định tính khách quan trong việc cung cấp
thông tin. Đặc biệt chú ý những nhân viên nữ phục vụ (tại vũ trường, quán bar,
karaoke… hoặc được thuê đi sử dụng ma túy cùng), những đối tượng này thường sử
dụng tên gọi khác với lý lịch (ví dụ: thay tên, tăng hoặc giảm tuổi, cung cấp sai
địa chỉ cư trú…) hoặc khai báo có thai. Trường hợp đối tượng khai có thai thì cần
đưa đến cơ sở y tế để khám chuyên khoa, xác định tình trạng sức khỏe của đối tượng
trước khi đưa đi xác định tình trạng nghiện ma túy. Khi bị bắt giữ họ thường
khai tên dùng ở quán, không đúng nhân thân, lai lịch, nơi cư trú di động nên
trong trường hợp không thể đưa họ đi xác định tình trạng nghiện, phải tạm cho về
hoặc giao cho gia đình quản lý chờ các cơ quan tố tụng giải quyết thì KSV phải
kiểm tra lý lịch của các đối tượng này đã được chính quyền địa phương xác nhận hay
chưa. Nếu đối tượng có địa chỉ ở xa, ĐTV đã tiến hành xác minh qua điện thoại tại
nơi đối tượng đăng ký cư trú chưa để tránh tình trạng sau khi cho các đối tượng
này về địa phương mới phát hiện đối tượng khai báo không trung thực, gây khó
khăn cho hoạt động điều tra.
1.2 Phối hợp cùng cơ quan điều tra khẩn trương tiến hành xác
định tình trạng nghiện ma túy của các đối tượng liên quan
Theo hướng dẫn tại điểm a mục 6.2 phần II Thông tư liên tịch
số 17/2007 quy định: “Người nghiện ma túy
có chất ma túy (không phân biệt nguồn gốc ma túy do đâu mà có) cho người nghiện
ma túy khác chất ma túy để cùng sử dụng trái phép thì không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy…” nên việc xác định
tình trạng nghiện là bắt buộc trong việc xử lý các đối tượng có biểu hiện tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy. Đây là một trong những vấn đề quan trọng quyết định
hành vi của các đối tượng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có phải tội phạm
hay không.
Ngay sau khi bắt, đưa các đối tượng có liên quan đến việc tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy về trụ sở để làm việc, cơ quan điều tra cần
thu thập ngay mẫu nước tiểu của những người này để sơ bộ xác định họ có sử dụng
trái phép chất ma túy không. Việc test thử nhanh nước tiểu có thể được tiến
hành bằng nhiều cách có thể sử dụng dụng cụ y tế là thanh test ma túy hoặc đưa
đến cơ sở y tế xét nghiệm hoặc mời giám định kỹ thuật hình sự thu mẫu xét nghiệm…
Trước khi tiến hành xác định tình trạng nghiện ma túy của
các đối tượng, ĐTV phải xác minh tại chính quyền địa phương xem đối tượng
sử dụng trái phép chất ma túy có tên trong danh sách đối tượng nghiện do chính
quyền địa phương quản lý hay không, gia đình và người thân có biết các đối tượng
sử dụng ma túy hay không. Nếu các đối tượng này có tên trong danh sách người
nghiện do địa phương quản lý thì không phải đưa họ đến cơ sở cai nghiện để xác
định tình trạng nghiện ma túy nữa mà căn cứ vào những tài liệu này có thể khẳng
định họ là người nghiện ma túy. Còn các đối tượng có kết quả xét nghiệm nước tiểu
dương tính với ma túy nhưng không thuộc danh sách người nghiện ma túy ở địa
phương quản lý thì ĐTV đưa họ đi xác định tình trạng nghiện tại các cơ sở cai
nghiện. ĐTV phải cung cấp các tài liệu cho cơ sở cai nghiện để đánh giá sơ bộ
tình trạng sử dụng ma túy của các đối tượng như: biên bản sự việc, lời khai của
đối tượng về việc sử dụng ma túy, kết quả test dương tính với loại ma túy cụ thể.
Sau đó, cơ sở cai nghiện sẽ tiến hành kiểm tra, chuẩn đoán, theo dõi các dấu hiệu
đặc trưng của người sử dụng ma túy để đánh giá và đưa ra kết luận họ có nghiện
ma túy hay không.
Quá trình điều tra ban đầu, KSV cần chú ý đối với những vụ
việc cơ quan điều tra tiếp cận hồ sơ, đối tượng muộn (có thể do công an cấp xã hoặc
cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu
phát hiện bắt giữ, thiết lập hồ sơ chuyển đến cơ quan điều tra cấp huyện muộn)
thì việc test thử nước tiểu xác định tình trạng nghiện ma túy đôi khi không kịp
thời và cho kết quả không chính xác. Các chất ma túy, rượu cồn đào thải thông
qua một số bộ phận trên cơ thể người có thời gian khác nhau, cụ thể: Thời gian
tồn tại của chất gây nghiện trong nước tiểu: amphetamine và ma túy ảo giác từ
1-3 ngày; cocain, heroine, thuốc lắc từ 3-4 ngày; ma túy đá từ 3-6 ngày;
morphine từ 2-3 ngày; cần sa từ 7-30 ngày. Thời gian tồn tại của chất gây nghiện
trong máu: amphetamine 12 giờ, ma túy ảo giác từ 2-3 giờ, morphine từ 6-8 giờ,
ma túy đá từ 24-36 giờ; cocain và thuốc lắc từ 1-2 ngày; heroine khoảng 12
ngày; cần sa khoảng 14 ngày… Ngoài nước tiểu và máu là những mẫu bệnh phẩm thường
được các cơ sở y tế thu để xét nghiệm chất ma túy thì ma túy còn tồn tại trong
cơ thể người ở một số cơ quan khác [5].
Do đó, KSV cần yêu cầu ĐTV xác định việc các đối tượng có sử dụng ma túy hay
không thông qua một số cách xét nghiệm các mẫu bệnh phẩm khác như máu, lông
tóc…
Để tránh tình trạng
nhầm lẫn kết quả xét nghiệm của các đối tượng với nhau hoặc đối tượng chối cãi
không sử dụng ma túy hoặc thành phần nước tiểu của họ không có ma túy thì KSV
và ĐTV cần tiến hành việc lập biên bản thu mẫu giám định, tách các đối tượng cần
giám định ra khu vực tương đối độc lập với nhau, chụp ảnh lại kết quả giám định
với đối tượng cần giám định để đưa vào hồ sơ vụ án và lập biên bản cụ thể về nội
dung, kết quả giám định việc sử dụng ma túy cho đối tượng ký đầy đủ, có người
làm chứng hoặc đại diện cơ sở y tế.
Đối với các đối tượng sử dụng ma túy là người chưa thành
niên, kết quả test nhanh dương tính với ma túy nhưng không thể đưa họ đi xác định
tình trạng nghiện ma túy được vì hiện tại các cơ sở cai nghiện không tiếp nhận
xác định tình trạng nghiện ma túy đối với các trường hợp là người chưa thành
niên. Do đó, các đối tượng này thông thường cơ quan điều tra tiến hành thu thập
các lời khai ban đầu, xác định test thử có sử dụng ma túy không, rồi bàn giao
các đối tượng này cho gia đình quản lý, chờ xử lý sau. Vấn đề này đã được khắc
phục khi Luật Phòng, chống ma túy sửa đổi bổ sung năm 2021 được Quốc hội thông
qua tại kỳ họp thứ 11 ngày 30/3/2021, chính thức có hiệu lực từ ngày
01/01/2022. [6]
1.3 Củng cố tài liệu chứng cứ để xác định các dấu hiệu cấu
thành tội phạm Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Trong khoảng thời
gian chờ kết quả xác định tình trạng nghiện ma túy của các đối tượng liên quan
thì ĐVT và KSV cần phải phối hợp tích cực điều tra, thu thập tài liệu chứng cứ
để xác định vai trò, các dấu hiệu đặc trưng cấu thành tội phạm của các đối tượng.
Hoặc trong những trường hợp có các đối tượng thuộc diện có thể áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giữ hình sự ngay sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện thì
trong khoảng thời gian tối đa 09 ngày (thời hạn tạm giữ và gia hạn thời hạn tạm
giữ), ĐVT phải thu thập đầy đủ các chứng cứ để có thể khởi tố bị can hoặc trả tự
do cho người bị tạm giữ. Quá trình điều tra chứng minh, ĐTV cần chú ý các yếu tố:
Một là, hành vi “Chỉ huy,
phân công, điều hành” việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
Theo Thông tư liên tịch số 17/2007 quy định hành vi Tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là hành vi “Chỉ huy, phân công, điều hành” các hoạt động đưa trái phép chất ma
túy vào cơ thể người khác như: chuẩn bị, cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương
tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng chất
ma túy… Do đó, dấu hiệu chỉ huy, phân công, điều hành là hành vi khách quan bắt
buộc phải có trong cấu thành tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Thực tiễn
giải quyết án thuộc tội danh này cho thấy việc chứng minh yếu tố này gặp nhiều
khó khăn, đa số các vụ án đều được phát hiện, bắt quả tang khi các đối tượng tập
trung đông người sử dụng chất ma túy (đang sử dụng hoặc vừa sử dụng ma túy
xong). Biểu hiện khách quan ban đầu thường là hành vi sử dụng trái phép chất ma
túy, các đối tượng đều sử dụng ma túy, tinh thần chưa minh mẫn (đang ảo giác) nên
việc khai báo ban đầu thường chưa chính xác. Đòi hỏi ĐTV phải có chiến thuật hỏi,
ghi lời khai và thu thập khẩn trương tài liệu, vật chứng liên quan ngay sau khi
phát hiện hành vi phạm tội. Sau một thời gian nhất định, tinh thần các đối tượng
dần tỉnh táo hơn thì ĐTV tiến hành ghi lời khai cùng KSV đánh giá chứng cứ,
phân loại hành vi của các đối tượng để tìm ra người chủ mưu trong việc tổ chức
sử dụng ma túy. Trong đó, ĐTV phải làm rõ ai là người khởi xướng, có việc rủ
nhau góp tiền, bàn bạc mua ma túy, tìm địa điểm, rủ thêm người sử dụng ma túy
hay không. Diễn biến hành vi của các đối tượng khi sử dụng ma túy. Qua đó, ĐTV
và KSV sẽ sàng lọc được vai trò của các đối tượng trong vụ án: ai là người chủ
mưu, ai là người thực hành, ai là người giúp sức và ai là người thụ hưởng (người
được sử dụng ma túy mà không phải đóng góp hay thực hiện bất kì hành vi gì)…
Việc chứng minh yếu tố “Chỉ
huy, phân công, điều hành” thường dễ hiểu lầm sang dấu hiệu khách quan của
các yếu tố “Phạm tội có tổ chức”, “Tổ chức
phạm tội”. Các khái niệm này đều có những đặc điểm chung là yếu tố đồng phạm
(có nhiều người thực hiện hành vi phạm tội, có câu kết chặt chẽ, có đủ vai trò
thực hiện tội phạm: người chủ mưu, cầm đầu; người thực hành, người giúp sức…)
nên đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong việc đánh giá chứng cứ giữa những
người tiến hành tố tụng và giữa các cơ quan tiến hành tụng. Trong thời gian vừa
qua có nhiều vụ việc gặp khó khăn, phức tạp phải họp liên ngành nhiều cấp để giải
quyết vấn đề này. Do vậy, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối
cao đã tập hợp những vướng mắc này, giải đáp, hướng dẫn trực tiếp tại các buổi
Hội nghị, Hội thảo toàn ngành. Theo đó, hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là những hành vi chuẩn
bị các điều kiện cần thiết để sử dụng trái phép chất ma túy như bố trí, sắp xếp
con người, phương tiện, dụng cụ hoặc cung cấp chất ma túy để người khác sử dụng” [7]. Hành vi này khác và không đồng nhất với
tình tiết “phạm tội có tổ chức là hình thức
đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Người
tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm”. Yếu tố
đồng phạm trong tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đơn giản hơn, không bắt
buộc phải có sự phân công, chỉ đạo, điều hành chặt chẽ các đồng phạm trong tình
tiết “phạm tội có tổ chức”. Việc chỉ huy, phân công điều hành chỉ là việc bố
trí, sắp xếp, điều hành con người, phương tiện, cung cấp chất ma túy, điểm, phương tiện, dụng cụ… để thực hiện
việc sử dụng trái phép chất ma túy.[8]
Hai là, hành vi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể “người khác”:
Theo quy định của nhà nước ta thì chất ma túy có thể được
dùng trong các trường hợp nghiên cứu, phân tích khoa học, kiểm nghiệm hoặc để
chữa bệnh… Ngoài những mục đích trên, thì việc đưa chất ma túy vào cơ thể
con người bằng mọi hình thức đều bị coi là trái phép. Như trên đã phân tích, yếu
tố đồng phạm trong tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đơn giản, đa số
các đối tượng đều là người thực hành nhưng cũng có những người không được bàn bạc,
thỏa thuận trước nhưng lại được sử dụng ma túy mà không phải đóng góp bất kì thứ
gì. Từ đó, xuất hiện các khái niệm trong tội này là người thực hiện hành vi phạm
tội, người giúp sức và “người thụ hưởng”.
Thực tiễn ở địa phương cho thấy có nhiều
quan điểm đánh giá chứng cứ khác nhau để xác định các yếu tố “người khác” hoặc
“người thụ hưởng” trong tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Theo cách hiểu
thông thường thì cụm từ “người khác” được hiểu là “cá thể” độc lập với nhau. Có
những giai đoạn, những thời điểm khác nhau các cơ quan tiến hành tố tụng và những
người tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố cũng có nhiều quan điểm đánh giá
khác nhau về vấn đề này.
Giai đoạn từ sau khi Thông tư liên tịch số 17/2007 được ban
hành đến năm 2016, yếu tố “người khác” được hiểu là cá nhân này với cá nhân
khác nên có nhiều vụ án chỉ cần các đối tượng cùng thực hiện hành vi bố trí, sắp
xếp con người, phương tiện, dụng cụ hoặc cung cấp chất ma túy để người khác sử
dụng hoặc cùng nhau sử dụng ma túy (hành vi tổ chức cho nhau sử dụng ma túy) vẫn
bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Giai đoạn từ năm 2016 đến nay, có hai quan điểm khác nhau về
vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng yếu tố “người khác” vẫn hiểu như cách
hiểu thông thường và thực tiễn xét xử trước năm 2015 đã khẳng định. Quan điểm
thứ hai cho rằng yếu tố “người khác” phải là người khác so với nhóm người thực
hiện hành vi phạm tội (khác với chủ thể của hành vi phạm tội) [9] tức
là “người thụ hưởng”. Thực tiễn xét xử từ năm 2016 đến nay đã chứng minh, các đối
tượng thực hiện hành vi tổ chức cho nhau sử dụng trái phép chất ma túy (mỗi người
góp một phần hoặc thực hiện một trong chuỗi các hành vi đưa trái phép chất ma
túy vào cơ thể người khác) thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy và coi đây là trường hợp sử dụng trái phép
chất ma túy (hành vi này đã được bãi bỏ khi Thông tư liên tịch số 08/2015 ngày
14/11/2015 của Bộ Công an, Viện kiểm sát tối cao, Tòa án tối cao, Bộ Tư pháp sửa
đổi bổ sung Thông tư liên tịch số 17/2007). Và theo đó, chỉ những vụ án nào các
cơ quan tiến hành tố tụng xác định được “người thụ hưởng” thì mới có thể truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng khác. Chúng tôi, đồng ý với quan điểm
này.
Ba là, các yếu tố loại trừ trách nhiệm hình sự khi đánh giá, phân
loại vai trò các đối tượng phạm tội:
Với đặc trưng của sử dụng trái phép chất ma túy, đặc biệt là
ma túy tổng hợp phải có nhiều người sử dụng cùng nhau. Thông qua các vụ việc được
phát hiện trên địa bàn thành phố trong thời gian vừa qua, chủ yếu là các nhóm đối
tượng tập trung tại các quán Karaoke, nhà nghỉ, khách sạn, vũ trường, quán bar…
để sử dụng ma túy. Những đối tượng bị bắt giữ thông thường gồm ba nhóm: nhóm thứ
nhất là khách đến quán sử dụng ma túy (vai trò là người chỉ huy, phân công, điều
hành); nhóm thứ hai là những nhân viên nữ phục vụ có thể của nhà hàng, hoặc do
khách gọi ở nơi khác đến (vai trò giúp sức); nhóm thứ ba là người quản lý nhà
hàng, khách sạn, chủ sở hữu địa điểm các đối tượng sử dụng ma túy (vai trò là
người liên quan). Việc phân loại các đối tượng, xác định vai trò chủ mưu, chỉ
huy, phân công điều hành, người thực hành, người giúp sức, người thụ hưởng
trong tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc xử lý người phạm tội, tránh oan, bỏ lọt tội phạm.
Bên cạnh các yếu tố đặc trưng cấu thành tội Tổ chức sử dụng
trái phép chất ma túy thì yếu tố nhân thân của người phạm tội cũng là một trong
những yếu tố cần phải làm rõ để làm căn cứ xác định việc người đó có bị truy cứu
trách nhiệm hình sự hay không. Bởi lẽ, theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số
17/2007 thì nhóm đối tượng là những người nghiện ma túy tổ chức cho nhau sử dụng
trái phép chất ma túy thì không phải chịu trách nhiệm hình sự [10].
Đây là trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người phạm tội.
Tuy nhiên, cần chú ý trường hợp đối tượng nghiện có địa điểm
cho người nghiện khác sử dụng ma túy từ sau thời điểm Thông tư liên tịch số
08/2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 30/12/2015 thì hành vi của người nghiện ma
túy cho người nghiện ma túy sử dụng ma túy tại nơi ở của mình, không thuộc trường
hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự (theo điểm b mục 7.3 Phần II các tội phạm
cụ thể Thông tư liên tịch số 17/2007) mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.[11]
Thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý tội Tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy ở địa phương trong những năm qua cho thấy: bên cạnh trường hợp
được loại trừ trách nhiệm hình sự trên thì trường hợp “tổ chức cho nhau sử dụng
trái phép chất ma túy” (trường hợp không có người thụ hưởng) thì cũng không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Hoặc trường hợp các đối tượng là những người giúp
sức có vai trò thứ yếu trong việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cũng được
xem xét không truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, quá trình điều tra, ĐTV cần
chú ý làm rõ hành vi khách quan, nhân thân của từng nhóm đối tượng trong tội Tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy để cá thể hóa trách nhiệm hình sự, trách nhiệm
hành chính của các đối tượng liên quan.
Hành vi đặc trưng của nhóm khách - chủ
thể tội phạm chủ yếu gồm các hành vi bàn bạc, rủ rê việc sử dụng trái phép chất
ma túy; phân công việc chuẩn bị ma túy (có sẵn hoặc đi mua); tìm địa điểm sử dụng
ma túy bằng cách thuê phòng nghỉ, phòng hát, đặt bàn trong quán bar...; tìm người
sử dụng ma túy cùng bằng cách gọi thêm người khác là bạn bè, người thân hoặc
thuê các nhân viên phục vụ nhà hàng qua các mối trung gian. Những đối tượng thuộc
nhóm này hầu hết đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chỉ những đối tượng được
rủ đi cùng là bạn bè, người thân được sử dụng ma túy mà không phải đóng góp gì -
không đồng phạm thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà tùy từng trường
hợp được xác định là người tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng hoặc
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Hành vi đặc trưng của nhóm nhân viên nữ
phục vụ, đây là nhóm hành vi của các đối tượng gây nhiều quan điểm tranh cãi
trong quá trình áp dụng pháp luật tại địa phương. Đối với nhóm đối tượng này,
khi được khách đặt vấn đề thuê đi phục vụ (đi hát cùng, đi sử dụng ma túy cùng)
để được trả công theo giờ hoặc khi được chủ quán điều động, phân công phục vụ
khách đến hát, chứng kiến khách tự lấy hoặc sai đi lấy các dụng cụ như đĩa sứ,
bật lửa, thẻ nhựa cứng… là những đồ dùng dụng cụ để sử dụng ma túy thì về mặt ý
thức chủ quan, các đối tượng này đều biết việc sử dụng ma túy. Quá trình sử dụng
ma túy các đối tượng này có hành vi giúp sức bằng cách lau đĩa, hơ lửa nóng cho
khô đĩa, đảo, xào, kẻ ma túy hoặc soi đèn pin cho các đối tượng khác đảo, xào,
kẻ ma túy, bê đĩa ma túy đi mời người khác sử dụng… Về hành vi khách quan
các đối tượng này đều có hành vi giúp sức cho việc tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy; Về nhân
thân, các đối tượng này đều có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự, nên về nguyên tắc nhóm đối tượng này phải bị xử lý hình sự. Tuy
nhiên, quá trình giải quyết các vụ án Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ở địa
phương còn có nhiều quan điểm trái chiều về đường lối xử lý các đối tượng này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng hành vi của những đối tượng này là đồng phạm với
hành vi của nhóm đối tượng khách với vai trò giúp sức, thậm chí hành vi “bê đĩa ma túy đi mời người khác trong phòng
sử dụng” của các nhân viên phục vụ được coi là hành vi cung cấp chất ma túy nên phải xử lý hình sự các đối tượng này. Hiện
nay Công văn 89 của Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn hành vi cung cấp chất
ma túy nhưng trường hợp này có được coi là cung cấp chất ma túy hay không thì
chưa rõ. Quan điểm thứ hai cho rằng, các đối tượng nhóm này không được bàn bạc
từ đầu, việc thực hiện hành vi giúp sức chỉ là được thuê làm để hưởng công;
tính chất, vai trò và mức độ thực hiện hành vi phạm tội của nhóm đối tượng này
không đáng kể nên không nhất thiết phải xử lý hình sự có thể áp dụng khoản 2 Điều
8 Bộ luật Hình sự “Những hành vi tuy có dấu
hiệu tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải
là tội phạm và được xử lý bằng biện pháp khác”[12]
và hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc xác định “người giúp sức có vai trò không đáng kể
theo khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự có thể được hiểu là người có hành rất đơn
giản, tính chất nguy hiểm cho xã hội thấp, mức độ tham gia hạn chế nhất so với
các đồng phạm, thông thường không trực tiếp gây ra hậu quả thiệt hại vật chất của
tội phạm”[13]. Do đó, trong thời gian vừa qua nhiều đối
tượng là nhân viên nữ phục vụ có vai trò không đáng kể trong việc giúp sức cho
các đối tượng khác tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đều bị xử lý hành
chính, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Để thận trọng trong việc áp dụng
pháp luật và tránh vi phạm các chỉ tiêu nghiệp vụ cứng của ngành, chúng tôi tiến
hành xây dựng quy chế phối hợp về giải quyết các vụ án hình sự với liên ngành
các cơ quan tố tụng địa phương. Theo đó, những trường hợp này các cơ quan tố tụng
đều tổ chức họp, đánh giá chứng cứ trước khi phân loại xử lý.
Đối với hành vi cung cấp địa điểm của
chủ quán, người quản lý nhà hàng, khách sạn cho các đối tượng khác sử dụng ma
túy: việc chứng minh ý thức chủ quan của những đối tượng này để xác định có đồng
phạm với nhóm khách tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là rất khó khăn. Các
đối tượng đều thấy dấu hiệu tập trung đông người (thuê 1-2 phòng nghỉ lớn cho
nhiều người ở, mở nhạc to), hỏi mượn đĩa, thẻ nhựa… (dụng cụ sử dụng trái phép
chất ma túy). Thực tế cho thấy, những đồ dùng dụng cụ sử dụng trái phép chất ma
túy không có đặc trưng riêng biệt, các đối tượng sử dụng những đồ dùng vật dụng
thông thường nên việc chứng minh ý thức chủ quan của các đối tượng trong những
trường hợp “buộc phải biết” các đối tượng khác sử dụng trái phép chất ma túy là
rất khó và tại địa phương hầu hết không thể xử lý hình sự được những đối tượng
này.
1.4 Phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc đánh giá chứng
cứ
Để xử lý triệt để các nhóm đối tượng tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố trong thời gian vừa
qua, công tác phối kết hợp giữa các cơ quan tố tụng địa phương với các cơ quan
ban ngành hữu quan khác rất quan trọng. Đặc biệt là việc phối hợp để nhanh
chóng cung cấp, thông tin, tài liệu, chứng cứ để có thể phân loại xử lý các đối
tượng.
- Với lực lượng Công an cấp xã: thường
xuyên nắm bắt danh sách các đối tượng nghiện ở địa phương đang được giáo dục tại
UBND cấp xã, các đối tượng được lập hồ sơ để đưa đi cai nghiện bắt buộc. Ngay
sau khi phát hiện được hành vi vi
phạm của các đối tượng, ĐTV cần khẩn trương
thu thập tài liệu làm rõ nhân thân
từng người, để thuận tiện cho việc phân loại các đối
tượng đưa đi xác định tình trạng nghiện ma túy.
- Với lực lượng cơ quan Y tế ở địa
phương: Trạm trưởng Trạm y tế ở địa phương là người có thẩm quyền xác định tình
trạng nghiện ma túy. Do đó, việc phối hợp với các cơ sở y tế xét nghiệm nhanh kết
quả sử dụng ma túy, loại ma túy các đối tượng sử dụng gay sau khi phát hiện được
hành vi phạm tội của các đối tượng có ý nghĩa quyết định, ảnh hưởng đến việc
xem xét xử lý các đối tượng.
- Với Cơ sở cai nghiện: Có thể nói việc
xử lý các đối tượng phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy phụ thuộc
vào kết quả xác định tình trạng nghiện ma túy của họ. Việc phối hợp với cơ sở
cai nghiện để kịp thời đưa các đối tượng đi xác định tình trạng nghiện, đơn giản
thủ tục hành chính, hồ sơ tài liệu kèm theo là một trong những điều kiện quan
trọng hỗ trợ cho các cơ quan tố tụng điều tra làm rõ hành vi phạm tội của các đối
tượng. Đồng thời việc gặp hỏi, ghi lời khai của những đối tượng này trong thời
gian xác định tình trạng nghiện tại các cơ sở cai nghiện cũng cần có sự phối hợp
để đảm bảo an toàn cho cán bộ và đối tượng liên quan.
- Với liên ngành tư pháp địa phương và cấp trên: Trên cơ sở
các đơn vị xây dựng quy chế phối hợp giải quyết án hình sự thống nhất giữa hai
cấp các ngành trên địa bàn thành phố thống nhất thực hiện việc đánh giá chứng cứ,
phân loại đối tượng xử lý ở các giai đoạn tố tụng. Đặc biệt để tránh oan sai, bỏ
lọt tội phạm liên ngành tư pháp địa phương đều tiến hành đánh giá chứng cứ trước
khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Riêng ngành Kiểm sát Hải Phòng, Lãnh đạo thống
nhất chỉ đạo trong toàn ngành, tất cả các đơn vị cấp huyện phải kịp thời báo
cáo cấp trên trước khi khởi tố những vụ việc phức tạp ảnh hưởng đến tình hình
chính trị địa phương và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, việc
xử lý các vụ án Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố không
có án trả hồ sơ hoặc đình chỉ do không phạm tội hoặc Tòa án tuyên xử khác tội
danh Viện kiểm sát truy tố.
- Với các cơ quan chính quyền và các Ban chỉ đạo phòng chống
tội phạm ở địa phương: các cơ quan tố tụng thường xuyên báo cáo kết quả xử lý
các đối tượng nghiện và tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn. Tăng cường kinh
phí, cơ sở vật chất, cung cấp các dụng
cụ thử nhanh ma túy để các cơ quan chức
năng trên địa bàn thành phố có đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ trong quá trình
xử lý các đối tượng phạm tội ma túy.
2. Một số khó
khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả giải quyết
án Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
- Về hệ thống
pháp luật:
Hệ thống văn bản pháp luật trực tiếp hướng dẫn việc xử lý tội
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy chưa cụ thể. Từ sau khi BLHS năm 2015 sửa
đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn các tội phạm
về ma túy, chủ yếu vẫn áp dụng tinh thần của Thông tư liên tịch số 17/2007,
Thông tư liên tịch 08/2015 sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 17/2007. Hiện
nay, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã giải đáp một
số nội dung liên quan đến tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, đã hướng dẫn
một số khái niệm cơ bản về dấu hiệu “chỉ huy, phân công, điều hành”, “vai trò
không đáng kể của người giúp sức”, “hành vi cung cấp” chất ma túy… nhưng đây chỉ
là hướng dẫn tạm thời, chưa phải là văn bản pháp lý chính thức nên cần tổng hợp,
nâng lên thành văn bản pháp luật có hiệu lực áp dụng rộng rãi hơn trong thực tế.
Cần hướng dẫn cụ thể về các khái niệm liên quan, dễ gây nhầm
lẫn trong quá trình áp dụng pháp luật. Theo đó cần bổ sung khái niệm “người thụ
hưởng là người được tổ chức cho sử dụng trái phép chất ma túy mà không phải
đóng góp công sức hoặc giá trị vật chất khác ” trong nhóm tội này.
Cần quy định rõ hơn, đầy đủ hơn về hành vi “cung cấp chất ma
túy” và trường hợp “bê đĩa ma túy đi mời người khác sử dụng” có phải là hành vi
cung cấp chất ma túy hay không. Theo chúng tôi, việc xác định dấu hiệu hành vi cung
cấp chất ma túy phải dựa vào nguồn gốc ma túy mà các đối tượng sử dụng do đâu
mà có,
nên trường hợp thực hiện hành vi bê đĩa ma túy mời người khác sử dụng không phải
là trường hợp cung cấp chất ma túy mà chỉ là một hành vi trong diễn biến thông
thường của việc sử dụng trái phép chất ma túy.
Bên cạnh đó cần có hướng dẫn cụ thể về những trường hợp loại
trừ trách nhiệm hình sự trong nhóm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Ngoài
yếu tố nhân thân (những người nghiện tổ chức ma túy cho nhau sử dụng) thì cần bổ
sung thêm yếu tố hành vi (trường hợp các đối tượng tổ chức sử dụng ma túy cho
nhau mà không có người thụ hưởng) cũng được coi là trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự.
- Về yếu tố con
người, chuyên môn nghiệp vụ:
Tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là một trong những
tội danh đang diễn ra tương đối phổ biến trên phạm vi cả nước nhưng để xem xét
truy cứu trách nhiệm hình sự các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội này còn gặp
nhiều khó khăn. Trong đó, yếu tố năng lực trình độ, nhận thức pháp luật của những
người tiến hành tố tụng cũng chưa thống nhất, còn nhiều cách hiểu khác nhau dẫn
đến việc xử lý tội phạm này chưa triệt để.
Các dấu hiệu đặc trưng của tình trạng nghiện đối với mỗi loại
ma túy là khác nhau. Do đó, đòi hỏi những cơ quan chuyên môn, đặc biệt là cơ
quan y tế trong quá trình điều trị, theo dõi cắt cơn nghiện cần thường xuyên cập
nhật các thông tin về các loại ma túy mới, những biểu hiện nghiện của người sử
dụng loại ma túy cụ thể để thống kê, tổ chức học tập, bổ sung kiến thức cho cán
bộ, công chức để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Từ đó, giúp cho các cơ
quan pháp luật thuận tiện hơn trong việc xác định tình trạng nghiện ma túy của
các đối tượng liên quan.
Việc điều tra, xử lý tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy đòi hỏi các ĐTV, KSV phải có kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ tốt. Một trong
những điểm đặc biệt của tội danh này là mọi hoạt động điều tra, phân loại, xử
lý ban đầu cần phải tiến hành nhanh, khẩn trương, kịp thời, đảm bảo tính chính
xác, khách quan. Khi giải quyết án đòi hỏi ĐTV, KSV nhiệt tình, có tinh thần
trách nhiệm cao, có kỹ năng làm việc tập thể khoa học, có khả năng tổng hợp,
phân loại các đầu việc phải tiến hành điều tra một cách đồng thời, không bị chồng
chéo và đảm bảo tiến độ nhanh chóng về thời gian. Do đó, Liên ngành tư pháp trung ương cần
phải thường xuyên đào tạo, rèn luyện kỹ năng giải quyết loại án này cho các cán
bộ, ĐTV, KSV.
- Về các yếu tố khác:
Cần tăng cường tuyên truyền pháp luật, tác hại của các loại
ma túy đặc biệt là những loại ma túy mới trên hệ thống phương tiện thông tin đại
chúng, loa truyền thanh tại các xã, phường, trị trấn để người dân hiểu và nâng
cao kiến thức phòng chống ma túy. Xử lý nghiêm minh các nhóm đối tượng này để
răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cho các cơ
quan y tế và cơ quan Công an đặc biệt là trang bị que thử ma túy (loại test 04
chân) có thể xét nghiệm nhanh việc sử dụng ma túy của các đối tượng liên quan./.
TS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên
*
TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
|
Tài liệu
|
1
|
Báo cáo tổng
kết công tác các năm 2015-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải
Phòng;
|
2
|
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,
NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2017.
|
3
|
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, NXB Chính trị quốc
gia sự thật, 2017.
|
4
|
Công văn 89/TANDTC-PC ngày
30/6/2020 của Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc trong quá trình giải quyết
các vụ án hình sự, hành chính và dân sự
|
5
|
Kỷ yếu Hội
nghị tập huấn Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự (Tài liệu giải đáp những khó khăn, vướng mắc - Vụ 7, Vụ 14), Vụ Thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, ngày 12/11/2020.
|
6
|
Giải đáp vướng mắc về pháp luật và
giải quyết các vụ án về tội phạm ma túy năm 2019-2020 của Văn phòng và Vụ
Pháp chế và quản lý khoa học Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2020.
|
7
|
Luật Phòng, chống ma túy
năm 2021
|
8
|
Tài liệu tập
huấn Chẩn đoán xác định tình trạng nghiện ma túy và các phương pháp hỗ trợ điều
trị nghiện ma túy ban hành ngày 20/10/2015 của Cục quản lý khám chữa bệnh - Bộ
Y tế;
|
9
|
Thông tư
liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA
ngày 09/7/2015 quy định thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình
trạng nghiện ma túy
|
10
|
Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số
quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999
|
11
|
|
12
|
https://www.vinmec.com/vi/tin-tuc/thong-tin-suc-khoe/cac-chat-gay-nghien-ton-tai-bao-lau-trong-co/
|
13
|
https://nhandan.com.vn/cung-suy-ngam/nhieu-diem-moi-trong-cong-tac-phong-chong-ma-tuy-641800/
|
14
|
https://trangtinphapluat.com/blog/bai-viet-hay/gioi-thieu-van-ban-moi/diem-moi-cua-luat-phong-chong-ma-tuy-nam-2021/
|
15
|
http://baochinhphu.vn/Xa-hoi/Lam-ro-nhung-diem-moi-trong-du-luat-phong-chong-ma-tuy-sua-doi/409853.vgp
|
[1] Nguồn số liệu Thống kê của
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng; Báo cáo tổng kết công tác các năm
2015-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng.