Trao đổi về bài viết “Vướng mắc trong xử lý đối với hành vi chế tạo trái phép thuốc pháo nổ để sản xuất pháo nổ”
Ngày 03/3/2021, trang
tin điện tử của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đăng bài viết của tổ
tuyên truyền Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão, trao đổi về vướng mắc trong việc
xử lý đối với hành vi chế tạo trái phép thuốc pháo nổ để sản xuất pháo nổ. Về một
số tình huống cụ thể được đưa ra, cá nhân tôi có quan điểm giải quyết như sau:
Vụ án thứ nhất: Ngày
30/12/2020, A bị Cơ quan Công an bắt quả tang đang sản xuất vật nghi là pháo
nổ. Cơ quan Công an đã thu giữ 110kg pháo thành phẩm, 03kg thuốc pháo nổ (theo
kết luận giám định của Cơ quan chuyên môn) và tổng khối lượng 10kg nguyên liệu
khác để sản xuất pháo nổ gồm giấy báo, giấy nilon, dây cháy chậm,... A khai mua
các nguyên liệu gồm KClO3 (Kali clorat), Lưu huỳnh (thành phần
bắt buộc có trong thuốc pháo), bột than hoa, giấy… để sản xuất pháo nổ.
A
khai về quy trình chế tạo thuốc pháo nổ: A dùng chày, cối giã mịn than hoa, sau
đó trộn đều bột mịn than hoa với lưu huỳnh và KClO3 với tỷ lệ:
01kg KClO3 + 200gam lưu huỳnh + 200gam bột mịn than hoa.
Chế
tạo dây cháy chậm bằng cách dùng màng nilon bọc thực phẩm trải ra, đổ thuốc
pháo nổ lên rồi dùng tay cuộn chặt màng nilon lại, vê thành dây cháy chậm.
Sản xuất pháo: A dùng giấy cuộn lại thành
hình trụ rỗng ở giữa, lấy ngòi thuốc (dây cháy chậm) nhồi vào 01 đầu, sau đó đổ
thuốc pháo vào trong ruột. Khi thuốc pháo gần đầy, A
đổ cát vào đầu còn lại, đổ keo 502 vào cát, gắn kín đầu pháo. Cuối cùng, A cuộn
giấy đỏ ra ngoài vỏ pháo và kết các quả pháo thành băng pháo.
Tôi không đồng tính với quan điểm thứ nhất
bài viết khi cho rằng: “tính tổng khối
lượng thuốc pháo nổ này cùng các nguyên liệu khác để sản xuất pháo nổ đã thu
giữ của A để định khung đối với hành vi phạm tội của A về tội Sản xuất hàng cấm”.
Bởi lẽ, Điều 190 Bộ luật hình sự (BLHS) chỉ quy định về đối tượng là pháo nổ thành phẩm, vì vậy, không có
căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội danh này đối với hành vi
sản xuất các nguyên liệu khác để sản xuất pháo nổ.
Trong trường hợp này, theo quan điểm của
người viết, hành vi A sản xuất 110kg pháo thành phẩm đủ cơ sở để truy cứu TNHS về
tội “Sản xuất hàng cấm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 190 BLHS.
Đối với hành vi sản xuất ra 3,1kg thuốc
pháo nổ thì bị truy cứu TNHS về tội “Chế tạo trái phép vật liệu nổ” theo quy
định tại khoản 1 Điều 305 BLHS.
Đối với 10kg nguyên liệu khác để sản xuất
pháo nổ gồm giấy báo, giấy nilon, dây cháy chậm…, căn cứ khoản 7 Điều 3 Luật
Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017, chỉ có thể xác
định dây cháy chậm là vật liệu nổ. Tuy nhiên, để có cơ sở đánh giá, hành vi sản
xuất ra dây cháy chậm của A có đủ yếu tố cấu thành tội “Chế tạo trái phép vật
liệu nổ” theo quy định tại khoản 1 Điều 305 BLHS hay không, cần tiến hành đo
đạc để xác định độ dài của dây cháy chậm. Bởi lẽ, đến nay Bộ luật hình sự chưa
có văn bản hướng dẫn cụ thể nhưng có thể vận dụng các quy định tại Thông tư
liên tịch số 01/LN ngày 07/01/1995 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) - Viện
kiểm sát nhân dân Tối cao - Tòa án nhân dân Tối cao (Mục III tiểu mục 1 điểm k)
để xử lý. Theo quy định tại Mục 3, tiểu mục 1, điểm b Thông tư này, nếu dây
cháy chậm có độ dài từ 500m đến 3000m thì đủ cơ sở khởi tố A về tội “Chế tạo trái
phép vật liệu nổ” theo quy định tại khoản 1 Điều 305 BLHS, còn nếu độ dài dưới
500m thì không xử lý hình sự.
Vụ án thứ hai: A bị bắt quả tang khi
cũng đang sản xuất pháo nổ (theo lời khai thừa nhận của A), nhưng chưa tạo ra
pháo thành phẩm. Tất cả các nguyên liệu theo A khai dùng để sản xuất pháo nổ và
được Cơ quan Công an thu giữ là 110kg gồm: Thuốc pháo nổ, dây cháy chậm, giấy
màu,...
Cũng theo tinh thần trên, cần phân loại để
định lượng cụ thể trọng lượng thuốc pháo nổ và độ dài dây cháy chậm trong số
vật chứng thu giữ được. Nếu thuốc pháo nổ có trọng lượng từ 1kg trở lên, dây
cháy chậm từ 500m trở lên thì đủ căn cứ truy cứu TNHS đối với A về tội “Tàng
trữ trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại Điều 305 BLHS. Nếu chứng minh được
A có hành vi sử dụng các nguyên vật liệu để làm ra thuốc pháo nổ và dây cháy
chậm thì khởi tố về tội “Chế tạo trái phép vật liệu nổ” còn chỉ chứng minh được
A cất giấu số thuốc pháo nổ và dây cháy chậm trên (do mua, được cho…) để sản
xuất pháo thì khởi tố về tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại
Điều 305 BLHS.
Tuy nhiên, đến nay, do chưa có hướng dẫn
cụ thể về Điều 305 BLHS nên thực tiễn gặp phải nhiều vướng mắc và cách hiểu, áp
dụng khác nhau trên nhiều địa phương. Quan điểm giải quyết của người viết là
dựa trên hướng dẫn của những văn bản cũ, chưa bị thay thế, hủy bỏ. Tuy nhiên,
chính những văn bản này cũng chưa hướng dẫn cụ thể như thế nào là “số lượng rất
lớn”, “số lượng đặc biệt lớn” đối với các loại phụ kiện nổ.
Vì vậy, để có căn cứ pháp luật chính xác và
áp dụng thống nhất, kiến nghị các Cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể:
- Khoản 1 của Điều 305 BLHS: quy định rõ
khối lượng thuốc nổ là từ bao nhiêu đến dưới 10 kilôgam; phụ kiện nổ là bao
nhiêu (thuốc phóng là bao nhiêu kilôgam; dây cháy chậm là bao nhiêu mét; kíp
mìn, nụ xùy là bao nhiêu cái…);
- Các Khoản 2, 3, 4 Điều 305 BLHS: quy
định rõ các loại phụ kiện nổ có số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn là bao
nhiêu? (thuốc phóng là bao nhiêu kilôgam; dây cháy chậm là bao nhiêu mét; kíp
mìn, nụ xùy là bao nhiêu cái…)
Trên đây là quan điểm cá nhân của người
viết về vấn đề này, rất mong nhận được phản hồi của các đồng nghiệp để cùng
trao đổi, nâng cao thêm nhận thức.
Đồng Thị Lan Anh, Phòng 7 VKSND TP
()
c) Sản xuất, buôn bán pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40
kilôgam;…
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:…
g) Pháo nổ từ 40 kilôgam đến dưới
120 kilôgam;…”.