Hoàn thiện các Quy định về phạm vi điều chỉnh, chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong dự thảo Luật tổ chức nhân dân sửa đổi

      Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp Thứ 6, Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013. Theo đó, chế định Viện kiểm sát nhân dân được quy định từ Điều 107 đến Điều 109 Hiến pháp. Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp tiếp tục ghi nhận: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp… Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất (Điều 107).

     Toàn cảnh Hội nghị.

     Bên cạnh đó, Hiến pháp cũng quy định khái quát về nhiệm kỳ của Viện trưởng, cơ chế hoạt động, nguyên tắc và tổ chức hoạt động, cơ chế giám sát hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.

    Nghiên cứu Dự thảo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi (sau đây gọi tắt là dự thảo) cho thấy: Dự thảo đã được xây dựng trên cơ sở hợp nhất 3 văn bản quy phạm pháp luật là: Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2001, Pháp lệnh Tổ chức Viện kiểm sát quân sự và Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân. Dự thảo cũng được xây dựng theo hướng pháp điển hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, phù hợp với các quy định của Hiến pháp, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới.

    Trong phạm vi tham luận này, tôi chỉ tham gia ý kiến về phần những quy định chung của dự thảo, bao gồm: phạm vi điều chỉnh; chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân; thẩm quyền, nguyên tắc hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân; cơ chế giám sát, trách nhiệm phối hợp; ngày truyền thống và phù hiệu của ngành Kiểm sát nhân dân. Cụ thể như sau:

    1. Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)

    Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành không quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật. Khắc phục tình trạng này, Dự thảo đã bổ sung một điều luật mới (phạm vi điều chỉnh) để phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, “Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung chung.

    Tuy nhiên, dự thảo luật lần này được xây dựng trên cơ sở sáp nhập Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân. Vì vậy, cần bổ sung theo hướng quy định cả Viện kiểm sát quân sự trong điều luật. Cụ thể cần sửa đổi như sau: Luật này quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc tổ chức và hoạt động; tổ chức bộ máy; cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên; chế độ, chính sách bảo đảm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự (sau đây gọi chung là Viện kiểm sát nhân dân).”

     2. Về chức năng, nhiệm vụ của VKSND (Điều 2)

     Điều 2 của dự thảo tiếp tục khẳng định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân quy định trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; bổ sung các quy định nhằm làm rõ đối tượng, nội dung, phạm vi, mục đích của chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; đồng thời cụ thể hóa các quy định tại Điều 107 và khoản 2 Điều 119 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013.

     Tuy nhiên về khái niệm “thực hành quyền công tố” và khái niệm “Kiểm sát hoạt động tư pháp” còn rườm rà, khó hiểu, dễ gây nhầm lẫn với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng khác như Tòa án, Cơ quan điều tra. Mặt khác, việc quy định quá chi tiết sẽ dẫn đến tình trạng trùng lặp, mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Theo tôi, về khái niệm “thực hành quyền công tố” và “kiểm sát hoạt động tư pháp” cần được quy định như sau:

     - Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng buộc tội, gỡ tội; được thực hiện ngay từ khi có hành vi tội phạm xảy ra và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp, không làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm.

     - Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát trong việc kiểm tra tính có căn cứ, hợp pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp và thi hành án nhằm phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư pháp.

     Khoản 2 Điều 2 dự thảo quy định: “Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Quy đinh như dự thảo là phù hợp, đã thể chế hóa được quy định của khoản 3 Điều 107 và khoản 2 Điều 119 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013; mặt kháckhẳng định VKSND là một cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, khẳng định nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và các đạo luật của Nhà nước. Đồng thời, Dự thảo Luật có kế thừa nhiệm vụ “bảo đảm để mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được xử lý nghiêm minh” đã được quy định tại Điều 2 Luật tổ chức VKSND hiện hành vì nó thể hiện hiệu quả cao nhất của việc thực hiện chức năng của VKSND.

      3. Các lĩnh vực công tác của VKSND (Điều 3)

      Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng 6 công tác, gồm: “1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; 2. Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; 3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; 4. Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; 5. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân; 6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù”.

      Dự thảo Luật quy định toàn diện về các lĩnh vực công tác của VKSND trên cơ sở kế thừa các điều 3, 4, 5 của Luật tổ chức VKSND năm 2002; tuy nhiên, thiết kế thành 02 khoản để phân định rõcác công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ vàcác công tác khác. Trong đó, đã quy định cụ thể, đồng thời xác định đúng phạm vi các công tác thực hiện chức năng, không chỉ gồm có các công tác truyền thống như quy định tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2002 mà bổ sung một số lĩnh vực công tác khác như Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Tương trợ tư pháp về hình sự; thống kê hình sự và thống kê tội phạm; giải quyết khiếu nại, tố cáo...

      Qua nghiên cứu các quan điểm của các nhà khoa học thấy có ý kiến cho rằng cần giữ nguyên các lĩnh vực công tác như quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành, bởi lẽ các lĩnh vực công tác khác là trách nhiệm và nghĩa vụ của Viện kiểm sát xuất phát từ các công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân. Ví dụ: nhiệm vụThực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là xuất phát từ nội dung công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Tuy nhiên, quan điểm của cá nhân tôi thấy quy định như dự thảo là phù hợp, khoa học, ngắn gọn, xác định rõ từng lĩnh vực công tác của Viện kiểm sát, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và quan điểm chỉ đạo của Đảng “Tăng cường công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”.

      4. Về thẩm quyền của VKSND khi thực hiện chức năng (Điều 4); quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, quyền kháng nghị của Viện kiểm sát (Điều 5)

      Nội dung của hai điều luật trên xuất phát từ quy định của Điều 6 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành, theo đó:

     Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản đó.

    Trong trường hợp các văn bản nói trên trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất và mức độ sai phạm mà người ra văn bản bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

      Các quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân phải được các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật.

     Việc quy định thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành chưa hợp lý; còn quy định chung chung, chưa cụ thể; Chưa có quy định trong trường hợp nào Viện kiểm sát ban hành yêu cầu, trường hợp nào ban hành kiến nghị, kháng nghị; chưa có chế tài hoặc quy định bắt buộc đối với các chủ thể trong việc thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân.

      Điều 4, Điều 5 Dự thảo Luật đã phần nào khắc phục được những hạn chế đã nêu ở trên; đã quy định những thẩm quyền cơ bản nhất của VKSND khi thực hiện chức năng, nhằm mục đích làm rõ hơn vị trí, vai trò của VKSND trong mối quan hệ phối hợp, phân công, kiểm soát quyền lực, mà cụ thể là kiểm soát việc thực hiện các hoạt động tư pháp của cơ quan điều tra, tòa án, cơ quan thi hành án và một số cơ quan khác (Điều 4); đã đưa ra những quy định cụ thể trường hợp nào ban hành yêu cầu, trường hợp nào ban hành kiến nghị, kháng nghị; quy định buộc chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 5). Tuy nhiên một số quy định tại Điều 4, Điều 5 dự thảo quy định chưa chặt chẽ, còn thiếu hoặc trùng lặp với các quy định của luật tố tụng; chưa quy định thời gian tiếp thu và trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát... Theo tôi, Điều 4, Điều 5 dự thảo cần điều chỉnh như sau:

      Điều 4. Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng (sửa đổi, bổ sung)

     1. Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có những thẩm quyền sau đây theo quy định của pháp luật:

     a) Ban hành các quyết định theo quy định của pháp luật (bỏ điểm b, d vì thuộc thẩm quyền quyết định của Viện kiểm sát);

      c) Kiểm tra, xác minh, điều tra; kiểm sát trực tiếp;

     d) Tham gia xét hỏi, luận tội, tranh tụng, phát biểu quan điểm tại Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng tại phiên tòa (thêm quyền tham gia xét hỏi, kiểm sát việc tuân theo pháp luật);

     đ) Yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị.

     e) Các thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.

    2. Viện kiểm sát nhân dân chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện các thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này.

     Điều 5. Quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân (mới)

     1. Thống nhất với dự thảo.

     2. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kiến nghị khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm pháp luật hoặc có sơ hở, thiếu sót trong hoạt động tư pháp, quản lý nhà nước, cần áp dụng các biện pháp khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xem xét, tiếp thu và trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị.

     3. Thống nhất với dự thảo

     5. Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND (Điều 6)

     Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục ghi nhận nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của VKSND; đồng thời, bổ sung nguyên tắc hoạt động của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 109). Điều 6 của Dự thảo Luật đã ghi nhận 02 nguyên tắc hiến định tại Điều 109 Hiến pháp và quy định cụ thể nội dung của 02 nguyên tắc trên cơ sở kế thừa Điều 8 Luật tổ chức VKSND năm 2002 và Điều 14 Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002. Đồng thời, làm rõ nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ thông qua cơ chế hoạt động của Ủy ban kiểm sát. Vì vậy, tôi cơ bản thống nhất với nội dung dự thảo. Tuy nhiên đoạn 3 khoản 3 Điều 6 dự thảo luật quy định hơi rườm rà, không cần thiết, cần chỉnh sửa lại như sau:

     Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao khi có căn cứ cho rằng việc đó là trái pháp luật; nếu Viện trưởng vẫn quyết định thì Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng có quyền bảo lưu ý kiến và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó.

     6. Về trách nhiệm phối hợp của VKSND (Điều 7)

     Nguyên tắc này đã được quy định tại Điều 7 Luật tổ chức VKSND hiện hành. Dự thảo Luật tiếp tục kế thừa quy định tại Điều 7, có bổ sung cơ quanKiểm toán thuộc diện VKSND cần ưu tiên phối hợp trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội về Tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tôi nhất trí với dự thảo, tuy nhiên cần bổ sung thêm cơ quan Thi hành án dân sự bởi lẽ tại thời điểm năm 2002 khi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được thông qua, cơ quan Thi hành án dân sự trực thuộc cơ quan Tư pháp địa phương nên quy định như cũ là hợp lý. Đến thời điểm hiện nay cơ quan Thi hành án dân sự đã tách khỏi cơ quan tư pháp địa phương thành cơ quan độc lập nên cần phải bổ sung vào danh sách các cơ quan cần được ưu tiên phối hợp để tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống vi phạm và tội phạm.

     7. Về trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 8)

     Điều 8 Dự thảo được xây dựng trên cơ sở các điều 6, 11 của Luật tổ chức VKSND năm 2002, các điều 8, 9 của Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 nhằm bảo đảm các hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND phải được tôn trọng, các quyền của VKSND phải bảo đảm được thực hiện trên thực tế, đồng thời cũng được đặt dưới sự giám sát của nhân dân. Tuy nhiên, điều 8 dự thảo quy định quá rườm rà, chưa khoa học. Theo tôi cần điều chỉnh Điều 8 dự thảo như sau:

     1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ tôn trọng, tạo điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ; thực hiện nghiêm chỉnh các lệnh, quyết định, yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân.

     2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền kiến nghị, khiếu nại đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của luật.

     Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên của Viện kiểm sát nhân dân.

     8. Về giám sát hoạt động của VKSND (Điều 9)

     Điều 9 Dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở kế thừa một phần quy định tại Điều 9 Luật tổ chức VKSND năm 2002. Tuy nhiên, Điều 9 dự thảo Luật bổ sung trách nhiệm “trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Quốc hội về hoạt động của toàn ngành Kiểm sát nhân dân” (Đoạn 1 Khoản 1 Điều 9); sửa đổi quy định Viện trưởng Viện kiểm sát khu vực (hoặc cấp huyện) “có trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân khi Hội đồng nhân dân yêu cầu” (Đoạn 4 Khoản 1 Điều 9) cho phù hợp với chủ trương thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp huyện, quận, phường và chủ trương thành lập Viện kiểm sát khu vực; Bổ sung quy định về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với hoạt động của VKSND cho phù hợp với quy định tại các điều 2, 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 (Khoản 2 Điều 9).

     Việc sửa đổi, bổ sung Điều 9 như dự thảo theo tôi là phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp, cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước.

     9. Về ngày truyền thống, phù hiệu của ngành Kiểm sát nhân dân (Điều 10)

     Ngày truyền thống, phù hiệu là các giá trị biểu tượng, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của Ngành KSND, có ý nghĩa tinh thần rất lớn đối với toàn thể đội ngũ cán bộ ngành Kiểm sát. Vì vậy tôi thống nhất với Dự thảo Luật bổ sung một điều mới ghi nhận về ngày truyền thống, phù hiệu của ngành KSND như nội dung dự thảo.

     Trên đây là một số ý kiến tham gia vào Chương I – Những quy định chung của Dự thảo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Nguyễn Sơn Hà  Chánh Văn phòng VKSND TP Hải Phòng


Ứng dụng hỗ trợ nghiệp vụ
Tin tức
Thông tin cần biết
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1

Trang thông tin điện tử: VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG - Cơ quan chủ quản: VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Địa chỉ: Lô 18A, Lê Hồng Phong, Hải An, TP Hải Phòng - Điện thoại: 02253.838308 - Fax: 02253.839072 - Email: vp_haiphong@vks.gov.vn
Trưởng ban biên tập: Phó Viện trưởng Lưu Xuân Sang
Số giấy phép: 03/GP-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông TP Hải Phòng cấp ngày 17 tháng 10 năm 2017 (Giấy phép có giá trị 10 năm)
Bản quyền thuộc về VKSND TP Hải Phòng - Thiết kế bởi VNPT | Quản trị

Chung nhan Tin Nhiem Mang