Một số vấn đề về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân được quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Ảnh minh họa.
Toà án nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật trong các giai đoạn cách mạng của đất nước, hệ thống ngành Toà án đã góp phần rất to lớn bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Hệ thống Toà án của nước ta đã trải qua những cải cách về tổ chức và hoạt động qua các thời kỳ theo quy định của Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), các luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và năm 2002. Nhìn chung, những thay đổi, cải cách của hệ thống Toà án đã mang lại những kết quả tích cực về tổ chức và hoạt động, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ chính trị đặt ra trong từng giai đoạn bảo vệ và xây dựng đất nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu đặt ra từ thực tiễn xét xử cũng như yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức và thực hiện quyền tư pháp, Toà án phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người ..., thì đòi hỏi ngành Toà án phải được cải cách mạnh mẽ từ nhận thức, pháp luật, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực phục vụ việc xét xử.
1. Những bất cập và tồn tại về tổ chức, vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân theo quy định của Hiến pháp hiện hành.
Quy định về hệ thống tổ chức, vị trí vai trò của Tòa án nhân dân trong Hiến pháp hiện hành đã tỏ ra có nhiều điểm bất cập và tồn tại chủ yêu sau:
Thứ nhất, thẩm quyền xét xử của mỗi Toà án hiện đang được xác định vừa theo lãnh thổ, vừa theo tính chất các vụ việc và thủ tục giải quyết, xét xử các vụ án. Theo quy định của pháp luật tố tụng, thì Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, các Toà án cấp trên đều có thẩm quyền xét xử hỗn hợp hoặc vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm như của Toà án nhân dân tối cao, hoặc có đầy đủ cả ba thẩm quyền xét xử theo trình tự giải quyết một vụ án, đó là vừa xét xử sơ thẩm, vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm, tái thẩm như ở Toà án cấp tỉnh. Điều này là không thể hiện đúng, chính xác tính chất hoạt động, vai trò, vị trí của Toà án mỗi cấp quy định trong hệ thống Toà án. Trên thực tế, mặc dù đã từng bước tăng thẩm quyền xét xử cho các Toà án nhân dân cấp huyện, nhưng các Toà án nhân dân cấp tỉnh vẫn phải giải quyết số lượng không nhỏ các vụ án theo thủ tục sơ thẩm mà lẽ ra các vụ án này phải được xét xử, giải quyết ở Toà án cấp huyện với tư cách là Toà án sơ thẩm trong hệ thống Toà án. Các bản án, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh, về mặt lý thuyết và cả trên thực tế vẫn có thể bị huỷ bởi Toà án nhân dân tối cao nên làm hạn chế ý nghĩa pháp lý của chế định giám đốc thẩm; tái thẩm. Đối với Toà án nhân dân tối cao vẫn tiếp tục giải quyết, xét xử phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị và trên thực tế, không ít các bản án, quyết định phúc thẩm của các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã bị kháng nghị và bị huỷ theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bởi chính Toà án nhân dân tối cao vô hình trung đã làm ảnh hưởng đến vai trò, uy tín pháp lý của Toà án nhân dân tối cao với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống Toà án. Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định chế định giám đốc thẩm, tái thẩm là nhằm tạo cơ chế khắc phục các sai lầm trong việc giải quyết, xét xử các vụ án và để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và đường lối xét xử trên bình diện chung của cả hệ thống Toà án. Tuy nhiên, việc có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm (gồm Toà án cấp tỉnh, Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao), thì mục tiêu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và xác định đường lối xét xử chung của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ bị ảnh hưởng. Trên thực tế, đã có những quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, hoặc thậm chí có trường hợp quyết định giám đốc thẩm của Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao bị Hội đổng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ. Ngoài ra, việc có nhiều cấp giám đốc thẩm cùng với quy định không hạn chế về điều kiện kháng nghị và thủ tục không rõ ràng trong việc xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, một mặt làm cho việc giải quyết một vụ án kéo dài, mặt khác làm mất tính ổn định trong các phán quyết của Tòa án và ở một chừng mực nào đó làm vô hiệu hóa nguyên tắc Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Thứ hai, về nhiệm vụ và tổ chức công việc của Toà án các cấp, ở Toà án nhân dân tối cao vẫn còn nặng về xét xử phúc thẩm bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ rất quan trọng khác là giám đốc việc xét xử của các Toà án, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, quản lý các Toà án địa phương về tổ chức; Toà án nhân dân cấp tỉnh, tuy có vị trí là Tòa án cấp dưới, nhưng có vai trò vừa là Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm, vừa là một cấp giám đốc thẩm, tái thẩm, ngoài ra còn có nhiệm vụ quản 1ý các Tòa án cấp huyện về tổ chức theo phân cấp của Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, sức ép về công việc đối với Toà án nhân dân cấp tỉnh cũng không phải nhỏ, nhất và đối với Toà án của các thành phố lớn. Đối với Toà án nhân dân cấp huyện, do được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp huyện nên dàn trải, nhiều đầu mối, có nơi quá nhiều việc, có nơi lại quá ít việc. Trên thực tế, những bất cập nói trên về tổ chức và hoạt động của các Toà án đang gây ra những trở ngại, khó khăn cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và tổ chức công việc để nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác ở Toà án mỗi cấp. Đối với các Toà án cấp huyện có khối lượng lớn về công việc thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất luôn là gánh nặng và là vấn đề bức xúc do xuất phát từ yêu cầu phải giải quyết một khối lượng công việc về chuyên môn quá lớn và ngày càng tăng theo đà phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương đó. Ngược lại, đối với những Toà án cấp huyện có khối lượng công việc phải quyết không đáng kể nhưng vẫn phải bố trí đủ cán bộ theo cơ cấu tổ chức bộ máy của Toà án theo quy định và yêu cầu phải có trụ sở, phương tiện làm việc như các đơn vị khác nên đã gây ra lãng phí không đáng có về nhân lực và vật lực. Mặt khác, do được tổ chức theo đơn vị hành chính nên Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân cấp huyện được coi là các Toà án nhân dân địa phương, nên địa vị pháp lý của những Toà án cấp này chưa được xác định một cách chính xác, hợp lý và phù hợp với vai trò, vị trí của Toà án trong hệ thống bộ máy nhà nước. Cụ thể, Toà án nhân dân cấp tỉnh được xác định giống như một cơ quan cấp sở của tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện được xem như một cơ quan cấp phòng của huyện. Do đó, việc xử lý, giải quyết các vấn đề có liên quan đến tổ chức của các Toà án còn chưa thực sự thoả đáng. Chế độ tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, Thẩm phán Toà án các cấp được quy định như các ngạch cán bộ, công chức hành chính nhà nước khác là không đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử và không tương xứng với vị trí, vai trò và tính chất hoạt động quan trọng của cơ quan Toà án trong bộ máy Nhà nước. Hiện tại, việc xây dựng, kiện toàn, bổ sung đội ngũ cán bộ và việc cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các Toà án gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân có phần xuất phát từ những yếu tố bất cập mang tính khách quan nói trên.
Thứ ba, do các Toà án địa phương được tổ chức theo đơn vị hành chính, chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp nên thực tế cho thấy, nơi nào cấp uỷ và Hội đồng nhân dân quan tâm theo hướng tích cực và đúng quy định của pháp luật đến công tác tư pháp thì Toà án nơi đó có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện nhiệm vụ xét xử được giao. Ngược lại, nơi nào cấp uỷ, Hội đồng nhân dân không quan tâm đúng mức tới công tác Toà án hoặc để xảy ra tình trạng buông lỏng sự chỉ đạo, giám sát hay can thiệp quá sâu vào việc xét xử của Toà án thì công tác Toà án gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
Với những bất cập nêu trên thì việc cải tổ lại tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân là việc làm cần thiết và phù hợp với tình hình hiện tại của đất nước. Việc xây dựng một mô hình Tòa án nhân dân phù hợp là một yêu cầu cấp thiết của công cuộc cải cách tư pháp, là những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng như: Nghị quyết trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết trung ương 3 và 7 khoá VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Đặc biệt, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” có đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án theo hướng: “Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Toà chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành”.
2. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã đưa ra nhiều quy định mới về tổ chức, vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân. Theo bản dự thảo sửa đổi, quy định về Tòa án nhân dân được quy định chung cùng với Viện kiểm sát nhân dân tại chương VIII, từ Điều 107 đến Điều 111. Tuy nhiên qua nghiên cứu các quy định của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, chúng tôi thấy vẫn còn có một số điểm cần điều chỉnh, bổ sung. Cụ thể như sau:
- Dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa giải quyết được vấn đề ai đứng đầu hệ thống tư pháp? Theo quy định tại Điều 107 dự thảo thì TAND chỉ là cơ quan xét xử… Như vậy trong 3 chức năng: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp thì đứng đầu Lập pháp là Chủ tịch Quốc hội; đứng đầu Hành pháp là Thủ tướng; đứng đầu hệ thống tư pháp chưa được xác định rõ.
Ranh giới giữa cơ quan xét xử và cơ quan quản lý xét xử cũng chưa được cụ thể trong dự thảo. Như Điều 107 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã ghi rõ “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.” Rõ ràng, tòa án các cấp chỉ là những cơ quan xét xử; vậy cơ quan quản lý xét xử ở đây chưa có. Mặc dù Điều 109 (Dự thảo) có ghi: “2. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác” Ở đây cần làm rõ nội hàm của khái niệm “giám đốc việc xét xử”. Giám đốc việc xét xử có phải chỉ là trình tự giám đốc thẩm như trong quy định của tố tụng hình sự.
- Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bỏ đi cụm từ Tòa án nhân dân địa phương, thay vào đó chỉ quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân Tối cao và các Tòa án khác do luật định. Như vậy việc bỏ cụm từ Tòa án nhân dân địa phương phải chăng là bước đầu cụ thể hóa quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết 49 về xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính như hiện hành. Tuy nhiên, với vai trò là đạo luật cơ bản, thì việc quy định như trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như trên là chưa đầy đủ, chưa thể hiện được cụ thể mô hình tổ chức hệ thống Tòa án sẽ tổ chức theo mô hình nào. Ngoài việc quy định Tòa án nhân dân Tối cao là cơ quan xét xử cao nhất thì các cấp Tòa án còn lại đều không được đề cập đến trong dự thảo.
Theo quan điểm của cá nhân, nên kế thừa việc tổ chức cơ quan Tòa án theo Hiến pháp 1946, tổ chức các Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp, Tòa án thượng thẩm theo thẩm quyền xét xử (có khác chỉ là thay đổi về mặt tên gọi), chứ không tổ chức theo cấp hành chính. Tổ chức Toà thượng thẩm cố định ở khu vực như vậy sẽ giảm áp lực cho Toà án Tối cao và đưa việc giám đốc thẩm, tái thẩm xuống gần dân hơn, tạo điều kiện thuận tiện cho người dân dễ dàng tiếp cận với cơ quan công lý. Người dân các tỉnh xa không phải kéo nhau ra Hà Nội để khiếu nại, yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm như hiện nay.
- Ở Điều 107, khoản 1 dự thảo có ghi: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Quy định như vậy là chưa đủ, thực tế cho thấy ngoài Tòa án nhân dân còn có Tòa án quân sự, sau này do yêu cầu thực tế có thể Quốc hội thành lập các tòa án khác theo luật định. Vì vậy cần bổ sung như sau: tòa án nhân dân và các tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Quy định như trên mới có tính kế thừa Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992.
- Việc quy định rõ Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp là một điểm mới trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Dự thảo lần này giao cho tòa án thực hiện quyền tư pháp là phù hợp với cương lĩnh của Đảng và kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Dự thảo đã thể hiện tính nhất quán, nguyên tắc phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Việc giao cho Tòa án thực hiện quyền tư pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của Tòa án trong độc lập xét xử và trong xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, chế định quyền tư pháp trong quy định trên phải được hiểu và thực hiện như thế nào là vấn đề cần được giải thích rõ. Quyền tư pháp ccó đơn thuần chỉ là quyền xét xử hay còn bao hàm cả các quyền năng pháp lý khác nữa?
Trong khoản 2 Điều 107 dự thảo, theo tôi cần quy định thêm và viết lại như sau: Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự và tòa án khác do luật định trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ các lợi ích của nhà nước, của tổ chức, của tập thể, bảo vệ quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân theo quy định của pháp luật. Quy định như trên mới đảm bảo đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ, vị trí của Tòa án nhân dân trong bộ máy Nhà nước.
Điều 108 của dự thảo, khoản 1 như dự thảo quy định thiếu vì ngoài Tòa án nhân dân xét xử có hội thẩm, Tòa án quân sự xét xử có hội thẩm quân nhân, theo tôi nên viết lại như sau: việc xét xử của Tòa án nhân dân, các tòa án khác theo quy định có hội thẩm nhân dân; tòa án quân sự có hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật, khi xét xử hội thẩm ngang quyền với thẩm phán.
Khoản 7, Điều 108 của dự thảo theo tôi chuyển nội dung này qua Điều 32 của dự thảo ở Chương II về quyền và nghĩa vụ của công dân thì phù hợp hơn.
Ngoài ra cũng nên quy định thêm thành một khoản mới tại Điều 108, đó là: Tòa án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước Tòa án.
Điều 109 của dự thảo ở khoản 1 cần thêm cụm từ là thực hiện quyền tư pháp cho phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 107. Do đó nên viết lại là Tòa án Nhân dân tối cao là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, là cơ quan xét xử cao nhất của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ở khoản 2 Điều 109 của dự thảo quy định: Tòa án Nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử các tòa án khác, viết như vậy theo tôi chưa ổn vì tòa án khác ở đây được hiểu là Tòa án nào (vì chưa có quy định mô hình tổ chức tòa án cụ thể). Nên viết là Tòa án nhân dân Tối cao giám đốc việc xét xử của các tòa án nhân dân, các tòa án quân sự và các tòa án khác, trừ trường hợp Quốc hội quy định khi thành lập tòa án đó.
Cuối cùng, theo tôi Ban dự thảo cần nghiên cứu, thiết kế một chương riêng quy định về tòa án. Có như vậy mới thể hiện tính nhất quán nguyên tắc phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quy định riêng tòa án ở một chương sẽ không lẫn lộn vai trò của Tòa án, Viện kiểm sát thực hiện quyền tư pháp. Quy định riêng như vậy mới thống nhất được vị trí trung tâm của tòa án thực hiện quyền tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị và Cương lĩnh của Đại hội XI của Đảng đã quy định.
3. Một số đề xuất, kiến nghị.
Bằng việc quy định \"các tòa án khác\" thay vì \"các tòa án địa phương\", Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã mở đường cho việc thiết lập mô hình tòa án mới theo cấp xét xử thay cho mô hình tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ như hiên nay nhằm góp phần đảm bảo nguyên tắc độc lập của tòa án với các cơ quan Đảng, Nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, mô hình cụ thể tổ chức thì lại chưa có quy định cụ thể.
Cùng với việc tổ chức lại hệ thống Toà án các cấp, thì Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: “Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”. Tuy nhiên, khác với hệ thống Toà án, Nghị quyết số 49 nêu cụ thể mô hình và tên gọi của Toà án các cấp, còn đối với Viện kiểm sát, Nghị quyết số 49 chỉ nêu “được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án”. Như vậy, việc tổ chức Viện kiểm sát như thế nào cho phù hợp với hệ thống Toà án là một vấn đề rất quan trọng và phụ thuộc hoàn toàn vào mô hình tổ chức Tòa án trong thời gian tới. Vì vậy việc nhanh chóng hoàn thiện mô hình tổ chức Tòa án nhân dân, và tổ chức mô hình Viện kiểm sát nhân dân phù hợp với mô hình của Tòa án trong thời gian tới là nhiệm vụ cấp thiết, đảm bảo cho hệ thống các cơ quan tư pháp vân hành có hiệu quả, góp phần vào việc bảo vệ pháp chế nhà nước, bảo vệ pháp luật trong tình hình mới./.
Cao Lâm Khánh - Trưởng phòng 1A VKSND thành phố