“Một số vấn đề cần lưu ý khi giải quyết vụ án về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”
Thời gian gần
đây, tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là một trong những loại tội phạm
đang có xu hướng gia tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng về phương thức thủ
đoạn phạm tội. Không giống như các loại tội phạm khác, người phạm tội thực hiện
hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy khi bị phát hiện thường trong
trạng thái “phê, ảo giác” vì tác dụng của ma túy hoặc có tâm lý chống đối,
quanh co không khai nhận hành vi phạm tội của mình cũng như các đối tượng khác
liên quan nên gây nhiều khó khăn trong công tác đấu tranh ban đầu để làm rõ sự
thật của vụ án.
Qua
theo dõi và trực tiếp giải quyết các vụ án về Tội Tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy, người viết đã tổng hợp một số lưu ý trong quá trình giải quyết như
sau:
1. Lưu ý khi kiểm sát về thủ tục tố tụng của Cơ quan điều tra:
- Thứ nhất: Về hoạt động lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, áp dụng biện pháp tạm giữ, gia
hạn tạm giữ:
Việc lập biên
bản bắt người phạm tội quả tang là một tài liệu quan trọng phản ánh nội dung và
lời khai ban đầu của các đối tượng trong vụ án nên phải được tiến hành đúng
thời hạn và đảm bảo tính khách quan, trung thực. Nhưng đã có trường hợp, Công
an phường khi tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện được vụ việc đã lập biên
bản kiểm tra hành chính sau đó lại lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang sau
khi phát hiện vụ việc 5-6 tiếng. Trong trường hợp này, nếu tại thời điểm phát
hiện ra vụ việc hành vi của các đối tượng đã có dấu hiệu phạm tội thì cần lập
Biên bản bắt người phạm tội quả tang, nếu chưa đủ căn cứ thì lập biên bản kiểm
tra hành chính, sau đó tiến hành xác minh, kiểm tra đủ căn cứ thì tiến hành giữ
và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Quá trình tạm
giữ và gia hạn tạm giữ, phải đảm bảo việc thường xuyên tiến hành lấy lời khai của đối tượng
để củng cố chứng cứ, tài liệu và làm rõ mâu thuẫn giữa các đối
tượng có sự tham gia của
Kiểm sát viên trước khi đề xuất lãnh đạo Viện phê chuẩn các
Lệnh, quyết định. Nếu việc lập biên bản được tiến hành tại địa điểm là nơi xảy
ra tội phạm thì thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ phải được tính từ thời điểm Cơ quan
điều tra áp giải đối tượng về trụ sở của mình theo quy định tại khoản 1
Điều 118 BLTTHS. Có vụ án, cơ quan điều tra lại tính
thời hạn ngay khi lập biên bản bắt người phạm tội quả tang tại nơi ở, nơi xảy
ra vụ án hoặc ngay khi thực hiện Lệnh giữ người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp (tại nơi ở) hoặc sau thời điểm đưa đối tượng về trụ sở.
Nhiều trường hợp khi tiến hành tạm giữ, gia hạn tạm
giữ đối với đối tượng, Cơ quan điều tra thông báo,
giải thích quyền và nghĩa vụ cho người bị tạm giữ theo quy định tại khoản 3 Điều 117 BLHS nhưng hồ sơ
vụ án không có tài liệu thể hiện đã giải thích cho đối tượng.
- Thứ hai: Về tạm giữ đồ vật khi khám xét
Quá trình bắt các đối tượng khi thu giữ điện thoại
hoặc tài liệu, đồ vật nhưng nhiều trường hợp không lập biên bản tạm giữ đồ vật;
hoặc lập biên bản tạm giữ, biên bản niêm phong không đủ thành phần tham gia
hoặc có lập biên bản tạm giữ nhưng khi bàn giao
vụ án lại không thống kê vào danh sách vật chứng là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 198
BLHTTHS nhưng Kiểm sát viên không phát hiện để yêu cầu Điều
tra viên thực hiện theo đúng quy định.
- Thứ ba: Về việc lập biên bản tố tụng
Trong quá trình điều tra lập hồ sơ vu án, trong cùng
một thời gian nhưng nhiều hoạt động tố tụng đối với một đối tượng được tiến
hành ở các địa điểm khác nhau: Biên bản khám xét khẩn cấp nơi ở và biên bản giữ
người trong trường hợp khẩn cấp đối với một đối tượng được lập ở hai địa điểm
khác nhau nhưng cùng thời gian và do cùng một Điều tra viên thực hiện; trong
lúc thực hiện lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp tại nơi ở của người đó
lại tiến hành ghi lời khai của họ tại trụ sở Công an quận...
Nhiều biên bản tố tụng không được lập theo đúng quy
định tại Điều 67, Điều 133 BLTTHS như: người chứng kiến không tham gia nhưng ký
xác nhận; có tên Điều tra viên tiến hành hoạt động tố tụng nhưng không có chữ
ký xác nhận;
Nhiều biên bản ghi lời khai, hỏi cung bị can và các
đối tượng liên quan không ghi ngày, giờ bắt đầu, giờ kết thúc biên bản, có sự tham
gia của Kiểm sát viên nhưng không ký vào vào biên bản. Hoặc có tình trạng Điều
tra viên bỏ sót nhiều tài liệu, chứng cứ ngoài hồ sơ nhưng Kiểm sát viên không
phát hiện kịp thời để yêu cầu khắc phục.
2. Lưu ý
trong hoạt động thu thập chứng cứ
- Thu giữ vật
chứng là ma túy, bộ dụng cụ sử dụng ma túy:
Đối với các
vụ án về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, khi tiến hành kiểm tra,
khám xét việc tìm và thu giữ ma túy, vật mang dấu vết của ma túy và bộ dụng cụ
sử dụng ma túy là bắt buộc. Trong quá trình thu giữ vật chứng, cần lưu ý chụp
ảnh chi tiết đặc điểm, vị trí thu giữ để đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ
khác vụ án. Sau khi thu giữ, cần niêm phong và đảm bảo tính nguyên vẹn của vật
chứng theo quy định của pháp luật (có trường hợp đối tượng dùng tờ tiền để cuộn thành ống hút sử
dụng ma túy, khi Cơ quan điều tra thu giữ đã tháo ống ra để xác định mệnh giá
tờ tiền này).
- Niêm phong địa điểm, thực nghiệm điều tra, khám
nghiệm hiệm trường
Địa điểm để thực hiện hành vi phạm tội của loại tội
phạm này thường được tiến hành ở phòng ở, nhà nghỉ, khách sạn, quán karaoke, bar, vũ trường ... có đông đối tượng
tham gia, hiện trường xảy ra vụ án thường lộn xộn, hỗn tạp rất khó thu giữ được
đầy đủ các vật chứng, đồ vật liên quan, các đối tượng không tỉnh táo để khai
báo hoặc quanh co chối tội hoặc cất giấu ở nhiều vị trí mà Cơ quan điều tra
chưa thể thu giữ được hết. Do đó, việc niêm phong địa điểm là cần thiết để phục
vụ các hoạt động điều tra sau này như khám xét, thực nghiệm điều tra, khám
nghiệm hiện trường để thu thập thêm tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm
tội của các bị can và đối tượng liên quan. Nhiều vụ án, cơ quan điều tra đã thu
thâp được thêm ma túy cũng như đồ vật phục vụ việc sử dụng ma túy trong quá
trình khám xét và khám nghiệm hiện trường.
- Thu giữ điện thoại của bị can và các đối tượng liên
quan, camera, máy tính, sổ sách hóa đơn và các tài liệu liên quan
Trong nhiều trường hợp thông tin thể hiện trong điện
thoại các đối tượng sử dụng, camera nơi ở, nơi diễn ra hành vi phạm tội, các
hóa đơn, chứng từ thể hiện việc cho khách thuê phòng sử dụng ma túy là những chứng
cứ quan trọng giúp cơ quan tố tụng xác định được ý thức chủ quan, việc bàn bạc,
liên lạc cũng như hành vi và vai trò của các đối tượng trong vụ án. Việc thu
thập, khai khác thông tin ở các phương tiện điện tử này là cần thiết. Nhưng
nhiều vụ án, Cơ quan điều tra chỉ thu giữ điện thoại của các đối tượng bị tạm
giữ mà không tạm giữ điện thoại của các đối tượng thụ hưởng; không thu giữ đầu
thu camera và các tài liệu liên quan đến chủ quán (trong trường hợp bắt giữ ở
quán karaoke, bar, vũ trường, nhà nghỉ...) gây khó khăn trong việc thu thập chứng cứ và
xác định vai trò của các đối tượng liên quan trong vụ án.
Do vậy, Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra phải yêu cầu Cơ quan điều tra thu thập và khai thác các tài
liệu trên.
Khi thu giữ
điện thoại, cần khai thác ngay mật khẩu của điện thoại và ghi nhận lại mật khẩu
vào biên bản thu giữ vật chứng để tránh việc sau này đối tượng quên mật khẩu,
gây khó khăn cho việc khai thác các dữ liệu điện tử và công tác giám định điện
thoại.
- Khi thực hiện các
hoạt động ghi lời khai, hỏi cung
Nhiều vụ án không có bản ghi lời khai, bản hỏi cung
nào có ghi âm, ghi hình hoặc có bản hỏi cung Điều tra viên hỏi bị can có ý kiến
gì về việc hỏi cung có ghi âm, ghi hình, bị can trả lời không cần tiến hành ghi
âm, ghi hình nên Điều tra viên không tiến hành ghi âm ghi hình nữa. Điều 183
BLTTHS đã quy định việc ghi âm, ghi hình có âm thanh tại các buổi hỏi cung là
yêu cầu bắt buộc, do đó Cơ quan điều tra phải tiến hành ghi âm,
ghi hình có âm thanh các buổi hỏi cung, không phụ thuộc vào việc bị can có đồng
ý hay không. Riêng đối với loại tội Tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy việc tách các đối tượng và tiến hành ghi lời khai
ngay khi phát hiện để khai thác thông tin là một trong những phương pháp điều
tra đem lại kết quả cao để làm rõ nội dung vụ án.
Quá trình ghi lời khai, cần yêu cầu các đối tượng mô
tả và vẽ sơ đồ vị trí của các đối tượng khi sử dụng ma túy, vị trí, đặc điểm
của từng loại ma túy, quá trình sử dụng ma túy để đối chiếu, so sánh các lời
khai nhằm xác định tính khách quan, trung thực của các lời khai đó.
- Thử phản ứng ma túy và
giám định chất ma túy có trong cơ thể của đối tượng
Trong nhiều vụ án, việc test nhanh chất ma túy trong
cơ thể của đối tượng cần được tiến hành ngay để làm căn cứ xác định tính khách
quan của lời khai các đối tượng và tính liên quan đến ma túy thu giữ. Nhưng
trong nhiều vụ án, Cơ quan điều tra không yêu cầu Cơ quan giám định
hoặc cơ sở y tế test ngay hoặc sử dụng loại test không phù hợp dẫn đến ra kết quả không chính xác như: đối
tượng sử dụng ma túy Ketamine nhưng dùng loại test xác định loại ma túy
Methamphetamine, cần sa để thử. Hiện tại, cơ quan giám định và các cơ sở y tế ở địa phương được phép sử dụng
15 loại test để xác định loại ma túy có trong nước tiểu của đối tượng nên cần
sử dụng loại phù hợp để cho kết quả chính xác.
Sau khi test
nhanh phải tiến hành trưng cầu giám định chất ma túy có trong cơ thể đối tượng
(phải được tiến hành ngay).
Do vụ án Tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy thường có đông đối tượng tham gia và liên
quan, vì vậy để giải quyết hiệu quả, toàn diện, triệt để vụ án thì việc ghi lời
khai các đối tượng và nhân chứng, người liên quan, xem xét hiện trường, thu giữ
ngay các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án phải được thực hiện càng sớm
thì càng giúp Điều tra viên, Kiểm sát viên đánh giá được hành vi, vai trò của
các đối tượng trong vụ án chính xác nhất. Việc sử dụng phương pháp “làm việc
nhóm” cử một tổ Kiểm sát viên tham gia ngay từ khi tiến hành phân loại ban đầu
là một trong những phương pháp đã giúp Phòng 1 giải quyết tốt các vụ án có dấu
hiệu của tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trên cơ sở các lưu ý cơ bản
mà người viết vừa nêu trên.
Trên đây là
một số kinh nghiệm và các lưu ý khi giải quyết vụ án về tội phạm ma túy nói
chung và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nói riêng, người viết xin
chia sẻ để các đồng chí tham khảo, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ./.
Chu
Thị Thanh Vân - Phó trưởng Phòng 1