Thời hạn chấp hành hình phạt tù thông thường trong các vụ án hình sự được tính từ thời điểm bị cáo bị bắt, áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam để đảm bảo nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự: “thời hạn tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù”. Tuy nhiên, qua quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, còn nhiều quan điểm khác nhau trong cách tính thời hạn chấp hành hình phạt tù từ thời điểm nào đối với các vụ án có bị cáo bị tạm giữ, tạm giam theo Quyết định tạm giữ, Lệnh tạm giam của các Cơ quan tiến hành tố tụng khác.
Nội dung vụ án:
Do đầu tư tiền ảo trên mạng bị thua lỗ, Vũ Văn H. (sinh
năm 1998, nơi cư trú: Thôn Tô Đàm, xã An Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình)
đã nảy sinh ý định làm giả căn cước công dân, giấy phép lái xe để thuê xe ô tô
tự lái với mục đích đem đi cầm cố lấy tiền trả nợ và đầu tư tiếp. Ngày
31/10/2022, Vũ Văn H. có thủ đoạn gian dối là sử dụng căn cước công dân, giấy
phép lái xe giả có hình ảnh của H. nhưng mang tên Nguyễn Xuân Việt (H. tự nghĩ
ra), thuê 01 xe ô tô Mazda 3, BKS 15A-931.20 trị giá 482.500.000 đồng của Công
ty TNHH phát triển thương mại Thành Đạt Phát (địa chỉ trụ sở: Số 3/53/33/112A
đường Ngô Quyền, phường Máy Chai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng). Sau đó,
Vũ Văn H. đã bàn bạc với Nguyễn Văn B. – là bạn của H. (sinh năm 2004, nơi cư
trú: Tổ 4, thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), chụp ảnh của B.,
cung cấp hình ảnh, thông tin, thuê đối tượng trên mạng xã hội (chưa xác định được
căn cước, địa chỉ) làm các giấy tờ giả gồm: 01 căn cước công dân, 01 chứng nhận
đăng ký xe ô tô mang tên Nguyễn Văn B.. Ngày 04/11/2022, Vũ Văn H., Nguyễn Văn
B. đã sử dụng hai giấy tờ giả trên đến gặp anh Mai Văn Phúc (sinh năm 1988, nơi
cư trú: Số 147 đường Tựu Liệt, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội)
để cầm cố xe ô tô Mazda 3, BKS 15A-931.20 được 185.000.000 đồng. Vũ Văn H. chia
cho Nguyễn Văn B. 25.000.000 đồng, số tiền 160.000.000 đồng còn lại H. đã trả nợ
và chi tiêu cá nhân.
Toà án nhân dân quận Ngô Quyền xét xử bị cáo Vũ Văn H. về
tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức theo quy
định tại điểm a khoản 3 Điều 174, điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự, bị cáo
Nguyễn Văn B. về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, Làm giả tài
liệu của cơ quan, tổ chức theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 323, điểm b khoản
3 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Trước khi thực hiện hành vi phạm tội tại địa bàn quận Ngô
Quyền, Vũ Văn H. còn thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh TB. Vũ Văn H. bị tạm giữ từ ngày 06/3/2023, tạm giam ngày 15/3/2023 tại Trại
tạm giam Công an tỉnh TB. Ngày 13/3/2023, Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh TB đã ra
Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam đối với Vũ Văn H. về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh
TB. (Khi Toà án nhân dân quận Ngô Quyền xét xử, vụ án xảy ra tại địa bàn tỉnh
TB đang trong giai đoạn điều tra).
Tuy nhiên, cách tuyên thời hạn chấp hành hình phạt tù đối
với bị cáo Vũ Văn H. có hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: thời hạn chấp hành hình phạt tù của Vũ Văn H. từ ngày 06/3/2023 (thời
điểm Vũ Văn H. bị Cơ quan điều tra Công an tỉnh TB áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giữ).
Quan điểm thứ hai: thời hạn chấp hành hình phạt tù của Vũ Văn H. kể từ ngày bắt thi hành
án.
Quyết định tạm giữ, Lệnh tạm giam áp dụng với bị cáo Vũ
Văn H. không phải của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền mà của
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh TB. Việc tạm giữ, tạm giam của Cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an tỉnh TB là độc lập, không liên quan đến vụ án xảy ra tại địa
bàn quận Ngô Quyền. Trong quá trình điều tra vụ án xảy ra trên địa bàn tỉnh TB,
Cơ quan điều tra Công an tỉnh TB có thể thay đổi biện pháp ngăn chặn khác áp dụng
với Vũ Văn H. như bảo lĩnh. Do đó, phải tính thời hạn chấp hành hình phạt tù kể
từ ngày bắt thi hành án.
Quan điểm của tác giả nhất trí với cách tuyên thời hạn chấp
hành hình phạt tù của Vũ Văn H. từ ngày tạm giữ (không nhất trí với cách tính
thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án) vì những lý do sau:
- Do bị cáo Vũ Văn H. đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TB nên không thực hiện được việc bắt
thi hành án.
- Nếu trong trường hợp hành vi phạm tội của bị cáo H. tại
địa bàn tỉnh TB bị đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 230 Bộ luật Tố tụng
hình sự hoặc Toà án nhân dân tỉnh TB tuyên vô tội thì với cách tuyên án như
trên, bị cáo H. phải chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án, không
được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam trước đó theo Quyết định/Lệnh của Cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an tỉnh TB, vi phạm Điều 38 Bộ luật Hình sự, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền của bị cáo.
- Xét về tư cách tố tụng, bị cáo Vũ Văn H. là bị can
trong vụ án do Cơ quan điều tra Công an tỉnh TB khởi tố điều tra, đồng thời H.
còn có tư cách tố tụng là “người chấp
hành án” khi Bản án của Toà án nhân dân quận Ngô Quyền có hiệu lực pháp luật
và có quyết định thi hành theo quy định tại Luật thi hành án hình sự.
Việc tuyên thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt
thi hành án sẽ không đảm bảo cho việc chấp hành án phạt tù của bị cáo H. do bị
cáo có thể được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, hoặc trả tự do theo Lệnh,
Quyết định của Cơ quan tố tụng khác mà không bị ràng buộc về việc đang là người
phải chấp hành án phạt tù theo Bản án của Toà án nhân dân quận Ngô Quyền.
Để đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị cáo trong việc tính thời
hạn chấp hành hình phạt tù, đảm bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật đối với
các trường hợp tương tự, xin trao đổi ý kiến cùng các đồng nghiệp./.
Trịnh Thị Nhật Huyền – Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô
Quyền