Kinh nghiệm nhận diện các dấu hiệu đặc trưng của tội chiếm đoạt tài sản có sử dụng công nghệ cao, phân biệt với một số tội chiếm đoạt tài sản truyền thống
Trước tình hình tội phạm công nghệ cao nói chung và tội phạm
sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện chiếm
đoạt tài sản của tổ chức, cá nhân nói riêng đang có chiều hướng gia tăng, lan
rộng về số lượng các vụ việc, với phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh
vi, khó phát hiện, dự báo. Theo
khuyến cáo từ Bộ Công an, hiện tại ở Việt Nam xuất hiện nhiều hình thức lừa đảo
đang diễn ra trên không gian mạng. Đối tượng mà nhóm tội phạm này nhắm đến là người
cao tuổi, trẻ em, sinh viên/thanh niên, các đối tượng công nhân/người lao động,
nhân viên văn phòng. Các hình thức đó là:
- Giả danh các Công ty tài chính, Ngân hàng;
- Đánh cắp tài khoản MXH, nhắn tin lừa đảo;
- Lừa đảo đầu tư chứng khoán, tiền ảo, đa cấp;
- Đánh cắp thông tin CCCD đi vay nợ tín dụng;
- Cài cắm ứng dụng, link quảng cáo cờ bạc, cá độ, tín dụng
đen;
- Lừa đảo “combo du
lịch giá rẻ”;
- Lừa đảo cuộc gọi video Deepfake, Deepvoice;
- Lừa đảo “khóa SIM” vì chưa chuẩn hóa thuê bao;
- Giả mạo biên lai chuyển tiền thành công;
- Giả danh giáo viên/nhân viên y tế báo người thân đang cấp
cứu;
- Lừa đảo tuyển người mẫu nhí;
- Giả mạo trang thông tin điện tử, cơ quan, doanh nghiệp;
- Lừa đảo SMS Brandname, phát tán tin nhắn giả mạo;
- Lừa đảo tuyển công tác viên online;
- Giả danh Cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án gọi điện
lừa đảo;
- Rao bán hàng giả hàng nhái trên sàn thương mại điện tử;
- Lừa đảo chuyển nhầm tiền vào tài khoản ngân hàng;
- Lừa đảo dịch vụ lấy lại tiền khi đã bị lừa;
- Lừa đảo lấy cắp Telegram OTP;
- Lừa đảo tung tin giả về cuộc gọi mất tiền như FlashAI;
- Lừa đảo dịch vụ lấy lại Facebook;
- Lừa đảo tình cảm, dẫn dụ đầu tư tài chính, gửi bưu kiện,
trúng thưởng;
- Rải link phishing lừa đảo, seeding quảng cáo bẩn trên
Facebook;
- Lừa đảo cho số đánh đề.
Hậu quả của loại tội phạm này gây ra không chỉ gây thiệt hại
về vật chất hàng trăm tỉ đồng mỗi năm mà còn để lại nhiều hệ lụy gây bức xúc
trong dư luận xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân. Trong
thời gian qua, mặc dù các Cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương, trong
đó có Hải Phòng đã áp dụng nhiều biện pháp phòng ngừa, đồng thời tích cực
khuyến cáo, tuyên truyền trên các fanpage, các phương tiện thông tin đại chúng,
nhưng thực tế vẫn còn có nhiều cá nhân tiếp tục bị nhóm tội phạm này chiếm đoạt
tài sản thông qua một trong số hình thức, thủ đoạn lừa đảo đã liệt kê ở trên, dẫn
đến có nhiều gia đình lâm vào cảnh khốn cùng. Trong khi đó, tỷ lệ khám phá,
điều tra nhóm tội phạm chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng của Cơ quan điều
tra hai cấp trên địa bàn thành phố còn rất thấp bởi nhiều nguyên khác nhau,
trong đó nguyên nhân chủ yếu là do công tác dự báo, phát hiện tội phạm của các
cơ quan chức năng chưa theo kịp tốc độ phát triển của loại tội phạm này. Bên cạnh
đó hệ thống pháp luật của nhà nước ta còn chưa hoàn thiện, các quy định về quản
lý Nhà nước ở một số ngành nghề còn yếu kém, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
chức năng (Cơ quan điều tra, Nhà mạng, Ngân hàng còn nhiều bất cập…) chính là
những kẽ hở lớn để các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi phạm tội.
Để đáp ứng yêu cầu phát hiện và xử lý
loại tội phạm này, với trách nhiệm là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra đòi hỏi các Kiểm sát viên phải nhận diện đúng, đầy đủ phương thức, thủ
đoạn phạm tội, từ đó đề ra các yêu cầu điều tra có chất lượng trong quá trình thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
thuộc nhóm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông nói
chung và tội phạm Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện chiếm đoạt tài sản nói riêng. Trên cơ sở đó phân biệt với các tội
chiếm đoạt tài sản khác có sử dụng công nghệ, đảm bảo xử lý đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.
Sau đây là một số kinh nghiệm thực tiễn
của Kiểm sát viên trong việc nhận diện dấu hiệu đặc trưng của tội tội Sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản, quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự, trên cơ sở đó phân biệt
với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (thuộc loại tội phạm chiếm đoạt tài sản truyền
thống).
1. Nhận diện đặc điểm, phương thức thủ đoạn của loại tội phạm này.
1.1. Đặc điểm
- Người
phạm tội thông qua mạng viễn thông và các phần mềm, công cụ, thiết bị công nghệ
thông tin, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi phạm tội.
- Chủ thể thực hiện tội phạm phần lớn là
những người không chỉ có chuyên môn giỏi về công nghệ thông tin mà còn là những
người có kiến thức hiểu biết sâu rộng về pháp luật, kinh tế, chính trị, xã hội,
có khả năng hiểu thấu tâm lý của con người.
- Tội phạm xảy ra trên không gian mạng, không bị giới hạn về
lãnh thổ, người phạm tội có thể thực hiện hành vi điểu khiển, kiểm soát phương
tiện, thiết bị điện tử ở bất kỳ đâu, bất kỳ thời gian nào.
- Tội phạm nhanh chóng chiếm đoạt tiền của nạn nhân thông qua
hành vi sử dụng thiết bị điện tử có kết nối mạng để truy cập bất hợp pháp vào
tài khoản ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân rồi nhanh chóng thực hiện
việc rút và chuyển tiền đến nhiều tài khoản khác nhau (có nhiều lượt chuyển nối
tiếp nhau và liên tục với thời gian tính bằng giây).
- Hầu hết các tài liệu, chứng cứ đều tồn tại dưới dạng dữ
liệu điện tử nên người phạm tội dễ dàng che giấu, xóa dấu vết tội phạm.
- Khi thực hiện hành vi phạm tội, các đối tượng thường liên
hệ với nhau qua ứng dụng của các mạng xã hội Facebook, zalo, Telegram… để bàn
bạc, cùng nhau thực hiện tội phạm, trong khi công tác quản lý Nhà nước về các
mạng xã hội nói trên còn hạn chế.
1.2. Phương thức, thủ
đoạn
Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Hải Phòng, Trong hai năm 2022 và 2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra hai cấp tại
Hải Phòng mới khởi tố 29 vụ án với 11 bị can. Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp
các phương thức, thủ đoạn phạm tội của nhóm đối tượng phạm tội Sử
dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự đối với 29 vụ án đã được khởi tố trong thời gian qua, cho
thấy phương thức, thủ đoạn phạm tội của các đối tượng này có các dấu hiệu đặc
trưng sau đây:
- Người phạm tội sử dụng các tài khoản ngân hàng giả (đăng ký
mở tài khoản bằng thông tin cá nhân, CCCD giả) hoặc mua, mượn tài khoản ngân
hàng của người khác (bao gồm cả tài khoản đăng ký dưới tên của người đã chết)
sử dụng để nhận tiền phạm pháp.
- Người phạm tội sử dụng số điện thoại rác (đăng ký chủ thuê
bao bằng thông tin không chính xác…) để liên hệ với bị hại, đăng ký sử dụng
dịch vụ Internetbanking, đăng ký sử dụng các tài khoản mạng xã hội…
- Người phạm tội bí mật chiếm đoạt mật khẩu, mã xác nhận
chuyển tiền (bí mật quan sát bị hại thao
tác chuyển tiền, thường là người có mối quan hệ quen biết với bị hại). Ngay khi
có cơ hội, người phạm tội sử dụng chính điện thoại của bị hại và thông tin có
được truy cập vào tài khoản ngân hàng chiếm đoạt tài sản.
- Người phạm tội sử dụng tài khoản facebook bị hack, mạo nhận
tư cách chủ tài khoản để tìm hiểu các mối quan hệ thông qua nội dung tin nhắn, nhắm
đến các tài khoản cá nhân có hoạt động kinh doanh trên mạng facebook đã từng
giao dịch bán hàng với chủ tài khoản rồi dùng danh nghĩa chủ tài khoản facebook
đã bị hack giao dịch đặt mua hàng. Sau khi yêu cầu bị hại cung cấp số tài khoản
để chuyển tiền, đối tượng lấy lý do để nhận được tiền thành công, người bán
hàng phải đồng ý tải một ứng dụng thông qua đường Link do đối tượng gửi đến.
Thực chất đó là phần mềm để liên kết hai điện thoại với nhau, theo đó đối tượng
sẽ xem được toàn bộ thao tác của bị hại khi đăng nhập vào tài khoản ngân hàng chiếm
đoạt tài khoản, đồng thời đăng nhập và thao tác chuyển tiền ngay để lấy
các mã OTP mà ngân hàng gửi về màn hình máy điện thoại của bị hại, chiếm đoạt
tiền trong tài khoản.
- Người phạm
tội giả danh người của Cơ quan tiến hành tố tụng gọi điện đe dọa bị hại có liên
quan đến tổ chức tội phạm ma túy, rửa tiền… đang bị điều tra rồi yêu cầu bị hai
chứng minh mình vô tội bằng cách mở tài khoản ngân hàng, đồng thời chuyển tiền
vào tài khoản, cung cấp cho đối tượng tên tài khoản, mật khẩu đăng nhập, mã xác
nhận chuyển tiền, sau đó thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Trong lúc đối tượng
thực hiện các thao tác chuyển tiền, bị hại sẽ liên tục nhận được các cuộc gọi
từ các số máy lạ, mục đích làm cho bị hại không đủ thời gian gọi điện đến Ngân
hàng đề nghị khóa tài khoản cho đến khi đồng bọn lấy được hết tiền trong tài
khoản.
- Người phạm tội chủ động đưa người có tài khoản Zalo,
Telegram vào hội nhóm, dẫn dụ họ đăng nhập vào trang Web mà các đối tượng chỉ
định để tham gia trò chơi với hình thức nạp tiền VNĐ quy đổi ra tiền ảo (do
trang Web quy định giá trị quy đổi), tham gia đặt cược theo tỷ lệ tăng, giảm
(xanh, đỏ). Người chơi được hướng dẫn tạo tài khoản và mật khẩu cá nhân, đồng
thời được chỉ định nạp tiền vào một trong số tài khoản cài đặt sẵn trên trang
Web (là một dạng đánh bạc, người chơi có thể tự mình lựa chọn đặt cược hoặc đặt
cược theo chuyên gia đọc lệnh hoặc cài đặt chế độ tự động đặt cược). Đối tượng
phạm tội (có thể là người quản trị trang web) hoàn toàn có thể can thiệp điều
chỉnh được việc thắng, thua của người chơi. Để chiếm đoạt được tiền của người
chơi, đối tượng sẽ điều chỉnh để người chơi liên tiếp thắng cuộc và sẽ để cho họ
thực hiện thành công từ 01 đến 02 lần thao tác lệnh rút tiền mặt về tài khoản
ngân hàng của mình, nhưng thường là số tiền không lớn (dưới 100.000 đồng/01 lần
rút) nhằm kích thích lòng tham của họ, câu nhử họ tiếp tục tham gia đặt cược.
Đến khi số tiền thắng cược của người chơi đạt đến số điểm cược quy đổi ra tiền
VNĐ tương đối lớn (số tiền tội phạm mong muốn chiếm đoạt được), đối tượng ngay
lập tức yêu cầu người chơi phải rút hết tiền nếu không sẽ bị xóa tài khoản, sau
đó đối tượng sẽ đưa ra nhiều lý do để người chơi phải chuyển tiền vào các tài
khoản khác nhau do đối tượng chỉ định, như: chuyển tiền tạm ứng theo tỉ lệ % số
tiền có trong tài khoản; tiền thanh toán thuế thu nhập cá nhân; tiền thanh toàn
tỷ lệ % phí xác minh, xác minh lại tài khoản. Sau nhiều lần chuyển tiền, người
chơi rơi vào trạng thái tâm lý tiếc của, càng mong muốn lấy lại được số tiền đã
chuyển đi và vẫn hy vọng lấy được số tiền thắng cuộc nên phần lớn họ sẽ tiếp
tục thao tác chuyển tiền theo yêu cầu của đối tượng cho đến khi hết tiền trong
tài khoản hoặc tự mình phát hiện ra bị lừa đảo thì mới dừng lại.
- Người phạm tội thành lập sàn giao dịch tiền ảo trên không
gian mạng có giao diện
giống với các sàn giao dịch tiền điện tử quốc tế, tạo cho người chơi lầm tưởng
đó là các sàn giao dịch quốc tế thông thường để kêu gọi đầu tư. Những người đầu
tư tham gia dự đoán, đặt lệnh lựa chọn kết quả lên/xuống của tỷ giá các cặp
tiền điện tử (BTC/USD, ETH/USD…) trên sàn trong khoảng thời gian 60 giây. Người chơi có thể
tự mình lựa chọn đặt cược hoặc đặt cược theo chuyên gia đọc lệnh hoặc cài đặt
chế độ tự động đặt cược, nếu dự đoán đúng sẽ được hưởng 95% số tiền đặt
cược, nếu thua sẽ mất toàn bộ tiền đặt cược. Giống như trường hợp trên, người quản trị sàn có
thể can thiệp vào kết quả dự đoán, đặt lệnh của người chơi. Quá trình vận hành
sàn, người phạm tội đưa ra cơ chế chia tỷ lệ % hoa hồng cho người chơi nào kêu
gọi, rủ rê được nhiều người khác tham gia đầu tư (theo kiểu kinh doanh đa cấp).
Để chiếm đoạt được tiền của các nhà đầu tư, đối tượng sẽ tác động vào các tính
năng đặt lệnh trên trang Web của sàn giao dịch để can thiệp vào kết quả lựa
chọn đặt lệnh của người đầu tư theo ý muốn của người quản trị sàn. Thông thường
bọn chúng sẽ tác động sao cho các nhà đầu tư có số lần dự đoán đúng và có lãi
nhiều hơn số lần thua lỗ, sau đó mới dần đưa họ vào tình trạng bị thua lỗ cho
đến khi hết tiền đầu tư, nếu người nào muốn rút vốn, thì phải kêu gọi, rủ rê được
thêm người đầu tư thì đối tượng mới đồng ý cho rút tiền.
2. Đánh giá thực trạng
của việc giải quyết và nhận diện những khó khăn, vướng mắc
Từ đặc điểm, phương thức, thủ đoạn phạm tội của loại tội phạm
này cho thấy công tác phát hiện, xử lý trong thực tiễn gặp không ít khó khăn,
trong khi đó đối tượng lại liên tục thay đổi phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày
càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Loại tội phạm này thường
hoạt động có tổ chức, có sự phân công nhiệm vụ chặt chẽ giữa các đồng phạm theo
từng khâu nhiệm vụ cụ thể, bắt buộc phải có người có kiến thức về Công nghệ
thông tin (hack tài khoản facebook, tạo lập trang Web giả, tải và chuyển các
đường link có chứa mã độc, kích hoạt một số tính năng phục vụ cho việc phạm
tội, như tính năng liên kết giữa các thiết bị điện tử, tính năng can thiệp kết
quả dự đoán, đặt cược thông qua các chò trơi game và các sàn giao dịch tiền ảo
do các đối tượng tạo lập…); có người đứng ra thu mua thông tin về tài khoản
ngân hàng; thu mua sim điện thoại; dùng thông tin cá nhân đánh cắp được, mua
được, thậm chí là làm giả giấy tờ cá nhân để đăng ký mở tài khoản, đăng ký sim
điện thoại…..; có người thực hiện nhiệm vụ giả danh, gọi điện, mạo danh người
dùng facebook xâm nhập tìm hiểu, nhắn tin mua hàng chuyển khoản; có người hỗ
trợ đồng bọn làm hạn chế việc phát hiện của bị hại… Thực tiễn điều tra, truy
tố, xét xử của Cơ quan tiến hành tố tụng hai cấp trên địa bàn thành phố Hải
Phòng trong thời gian qua cho thấy, có một số ít vụ án thuộc trường hợp phạm
tội đơn lẻ được phát hiện xử lý, đó là trường hợp người phạm tội vì lý do nào
đó có được thông tin về tài khoản, mật khẩu, mã OTP của bị hại, sau đó người
này tìm cơ hội chiếm hữu, sử dụng điện thoại của bị hại truy cập trái phép tài
khoản ngân hàng của nạn nhân, chiếm đoạt tiền trong tài khoản. Tuy nhiên về
việc định tội danh đối với các trường hợp này còn có nhiều quan điểm khác nhau.
Có địa phương đã xử lý về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại Điều 173 Bộ luật
hình sự, có địa phương sử lý về tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 290
Bộ luật hình sự.
Trong số 29 vụ án Sử dụng mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản, quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự do Cơ quan Cảnh sát
điều tra hai cấp tại Hải Phòng khởi tố, điều tra, đáng chú ý có 01 vụ án, với
03 bị cáo đã bị xét xử, mặc dù phương thức thủ đoạn phạm tội của các bị cáo đã
đảm bảo dấu hiệu đặc trưng riêng biệt của loại tội này, nhưng thực tiễn vẫn còn
nẩy sinh xung đột quan điểm trong việc định tội danh và phân loại diện khởi tố.
Đó là vụ án mà nhóm đối tượng phạm tội thông qua hình
thức thành lập sàn giao dịch tiền ảo có tên Hittoptin.net trên không gian mạng,
có giao diện giống với sàn
giao dịch quốc tế thông thường để thực hiện việc chiếm đoạt tài sản, với thủ
đoạn kêu gọi nhiều người tham gia đầu tư tài chính, dự đoán kết quả lên xuống của
tỷ giá các cặp tiền
điện tử (BTC/USD, ETH/USD…). Đối tượng cầm đầu với
chức danh Giám đốc (Công ty ANT), có tuyển dụng nhân sự đầy đủ ở các khâu nhiệm
vụ. Theo đó, có cả kỹ sư Công nghệ thông tin được thuê tạo lập sàn giao dịch
điện tử trên không gian mạng, kích
hoạt các tính năng sao cho người quản trị sàn có thể can thiệp điều chỉnh kết
quả dự đoán của người đầu tư. Nhóm kỹ sư này còn có trách nhiệm, bảo dưỡng, bảo
trì, nâng cấp các tính năng của sàn giao dịch theo định kỳ và được hưởng lương.
Các nhân sự khác được
tuyển dụng hầu hết đều có hoạt động đầu tư tài chính ban đầu vào sàn, những
người này có trách nhiệm kêu gọi (rủ rê, lôi kéo) nhiều người cùng tham gia đầu
tư và được chia lợi nhuận, theo tỷ lệ % hoa hồng và còn được hưởng tỷ lệ % trên tổng số tiền của
người đầu tư khi họ thực hiện các giao dịch cụ thể. Trong số họ sẽ được thăng
chức lên trưởng nhóm, có nhiệm vụ quảng bá, tuyên truyền, thu hút đầu tư. Nhóm
nhân sự khác được giao nhiệm vụ “đọc lệnh” theo chỉ đạo của quản trị sàn mỗi
khi có người đầu tư lựa chọn đặt lệnh theo chuyên gia…. Quá trình giải quyết vụ
án còn có quan điểm xác định hành vi của nhóm đối tượng này có dấu hiệu phạm
tội Tổ chức đánh bạc và Đánh bạc, quy định tại Điều 321, 322 Bộ luật hình sự
(có sử dụng công nghệ cao). Theo đó, nếu chọn tội danh này sẽ mở rộng được diện
xem xét khởi tố đối với những người tham gia đầu tư, bởi hoạt động “đầu tư” vào
sàn giao dịch này thực chất là trông chờ may rủi, có tính chất sát phạt nhau
bằng tiền. Vụ án trên đã được các Cơ quan tiến hành tố tụng thành phố đưa ra
họp bàn, thống nhất đánh giá về động cơ, mục đích của nhóm đối tượng phạm tội
là chiếm đoạt tài sản. Nhóm này đã sử dụng phần mềm, công cụ,
thiết bị công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi phạm tội
nên có đủ yếu tố cấu thành tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 290 Bộ
luật hình sự. Kết quả điều tra, xác định được trong số những người tham gia đầu
tư, thực chất cũng có người rơi vào trạng thái thua lỗ (bị chiếm đoạt tài sản),
nhưng cũng có người đã rút được cả vốn và lãi sau khi đáp ứng được điều kiện
của chủ sàn kêu gọi được thêm nhiều người khác tham gia đầu tư.
Đến thời điểm hiện
tại, có 09 vụ án đang tạm đình chỉ điều tra, trong đó có 05 vụ không xác định
được đối tượng phạm tội, phần lớn các vụ việc, vụ án thuộc nhóm tội này rất khó
thu hồi được tiền trả cho bị hại. Quá trình điều tra xác minh, thu thập chứng
cứ kể từ khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm cho đến khi tạm đình chỉ điều tra
vụ án, có thể thấy chính bởi các quy định của Pháp luật liên quan đã không phù
hợp với tính chất của loại tội phạm này trong quá trình giải quyết vụ việc, vụ
án. Cụ thể, sau khi Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin về tội phạm (bị
hại trình báo bị chiếm đoạt tiền trong tài khoản), đơn vị tiếp nhận phải tổ
chức xác minh sơ bộ trong các mốc thời gian 24 giờ; 03 ngày; 07 ngày rồi chuyển
đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc thụ
lý, phân công giải quyết tin báo. Phía các cơ quan có trách nhiệm cung cấp cho
Cơ quan điều tra các tài liệu, chứng cứ quan trọng, đảm bảo cho việc giải quyết
vụ việc, vụ án như: Các nhà mạng viễn thông (cung cấp chủ sở hữu số thuê bao); các
Ngân hàng (cung cấp sao kê, thông tin cá nhân của chủ tài khoản nhận tiền của
đối tượng lừa đảo…) đòi hỏi phải có Công văn yêu cầu của Cơ quan điều tra để
làm căn cứ thực hiện, có nghĩa là trong các mốc thời gian mà đơn vị tiếp nhận
nguồn tin ban đầu sơ bộ xác minh, thì chưa có căn cứ làm phát sinh yêu cầu các
Cơ quan liên quan phải có trách nhiệm cung cấp tài liệu chứng cứ cho Cơ quan
điều tra. Trong thực tiễn, ngay cả khi đã có yêu cầu theo đúng quy định của
Pháp luật thì các cơ quan trên vẫn rất chậm chễ trong việc cung cấp tài liệu
liên quan, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ giải quyết vụ án. Quá trình giải quyết các vụ việc, vụ án về công nghệ cao,
việc xác minh thông tin tài khoản ngân hàng, phong toả số tiền trong tài khoản
ngân hàng cần phải nhanh chóng, kịp thời không để đối tượng tẩu tán tài sản.
Tuy nhiên, do đến nay chưa có cơ chế phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Ngân
hàng nên không đảm bảo việc nhanh chóng kịp thời thu thập tài liệu, chứng cứ
phục vụ cho việc xác minh, điều tra làm rõ người phạm tội, thu hồi tài sản cho
bị hại. Có nhiều vụ việc đã phải tạm đình chỉ xác
minh vì chưa nhận được tài liệu do phía Ngân hàng hoặc nhà mạng cung cấp. Do
các các đối tượng phạm tội chủ yếu sử dụng tài khoản ngân hàng, số điện thoại
không chính chủ hoặc không có người thật, thậm chí có cả tài khoản của người đã
chết nên việc xác minh, điều tra làm rõ nguồn tiền bị chiếm đoạt được chuyển
đến tài khoản cuối cùng và được rút ra như thế nào là rất khó khăn. Thực tế có
vụ việc Cơ quan điều tra cũng đã truy đến tài khoản cuối cùng nhận được tiền
lừa đảo và đã thực hiện việc phong tỏa tài khoản. Tuy nhiên, kết quả điều tra
xác định được số tiền của chủ tài khoản này có được là do hoạt động giao dịch
bán tiền số (tiền ảo) với chủ tài khoản là một người không có thật (tài khoản này
sử dụng CCCD giả để mở tài khoản). Hiện tại, Pháp luật Việt Nam không chấp nhận
tiền số trong hệ thống tiền tệ được giao dịch thanh toán Việt Nam, nhưng cũng
không có quy định cấm tổ chức, cá nhân giao dịch mua bán tiền ảo trên các sàn
giao dịch Quốc tế và sở hữu tiền số. Vì vậy đây cũng là vấn đề khó khăn trong
việc xử lý số tiền phong tỏa của chủ tài khoản, bán tiền số cho chủ tài khoản
đã giao dịch với mình trước đó bằng số tiền nghi là của bị hại đã bị lừa đảo. Một
số vụ việc khác, sau khi Cơ quan điều tra truy theo dòng tiền lừa đảo được
chuyển nối tiếp qua nhiều tài khoản khác nhau và tài khoản cuối cùng nhận được
tiền có địa chỉ IP tại Campuchia. Kết quả xác minh, chủ tài khoản khai nhận là
người kinh doanh nông sản (có cửa hàng thu mua, trưng bày tại Việt Nam; có hợp
đồng mua bán nông sản với Công ty ở Campuchia) nên có nhiều giao dịch đặt tiền cọc,
trả tiền hàng qua tài khoản ngân hàng với nhiều khách hàng khác nhau…. dẫn đến
khó khăn trong việc xem xét trách nhiệm liên quan của chủ tài khoản và khó thu
hồi tài sản trả cho bị hại.
Ngoài ra, có thể thấy một trong số những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình xác minh điều tra các vụ việc, vụ án thuộc nhóm tội phạm công nghệ
cao nói chung, chính là hạn chế về yếu tố con người. Số
cán bộ có kinh nghiệm, có trình độ về công nghệ thông tin, có chuyên môn nghiệp
vụ điều tra vừa thiếu vừa yếu, dẫn đến công tác nắm tình hình, dự báo tội phạm,
thủ đoạn phạm tội chưa chính xác, còn chậm so với thực tế, phần lớn chưa được
đào tạo bài bản. Khó khăn liên quan đến yếu tố con người của Cơ quan điều tra,
của Điều tra viên cũng chính là khó khăn của Viện kiểm sát với chức năng thực
hành quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án.
3. Công tác kiểm sát
3.1. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
giải quyết nguồn tin về tội phạm
Tội
phạm Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành
vi chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự thông thường được
phát hiện từ nguồn trình báo tố cáo của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại
đến tài sản. Thực tiễn giải quyết án trong thời gian qua cho thấy hầu hết các
vụ việc trình báo, tố cáo đối với loại tội phạm này đều được Cơ quan Cảnh sát
điều tra hai cấp tại Hải Phòng lựa chọn đưa vào giải quyết theo thủ tục tiếp
nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Chưa có vụ việc nào ra được Quyết định
khởi tố vụ án hình sự trong thời hạn 03 ngày. Điều này đã cho thấy tính chất
khó khăn trong quá trình xác minh, điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ đảm bảo
căn cứ khởi tố vụ án và làm rõ đối tượng phạm tội để xử lý theo quy định của
Pháp luật. Vì vậy, đòi hỏi các Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ nội dung tố cáo,
khai báo của bị hại để nắm bắt thủ đoạn phạm tội của đối tượng, xem xét các tài
liệu, đồ vật có liên quan đến việc tố cáo mà bị hại đã xuất trình để đề ra Yêu
cầu kiểm tra, xác minh phù hợp, có tính khả thi. Ví dụ như: bị hại cung cấp
thông tin trước khi bị chiếm đoạt tiền, các bên đều có trao đổi với nhau bằng
hình thức nhắn tin, nhưng sau khi chiếm đoạt, đối tượng đã thu hồi toàn bộ tin
nhắn, thì ra yêu cầu bị hại giao nộp điện thoại để trưng cầu giám định, phục
hồi trích xuất nội dung tin nhắn; Bị hại cung cấp sao kê việc chuyển tiền đến
các tài khoản mà đối tượng phạm tội chỉ định, thì ra yêu cầu Ngân hàng cung cấp
các thông tin về chủ tài khoản (tên, địa chỉ, số điện thoại dùng để đăng ký tài
khoản, sao kê các giao dịch chuyển tiền giữa tài khoản của bị hại và của đối
tượng, giao dịch chuyển tiền từ tài khoản đối tượng đến tài khoản cuối cùng
nhận được tiền trong khung thời gian bị hại tố cáo liên quan đến việc chuyển
tiền… theo đó yêu cầu nhà mạng cung cấp tên, địa chỉ người đăng ký thuê bao,
tiếp tục xác minh…
3.2. Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra, kiểm sát xét xử
Công
tác Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử đối với các vụ
án hình sự thuộc nhóm tội chiếm đoạt tài sản có sử dụng công nghệ cao có đủ căn
cứ khởi tố, điều tra, truy tố xét xử, không có gì khác so với các vụ án thông
thường và được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Tổ chức Viện
kiểm sát, các Điều 143, 147, 153, 154, 155, 156, 161, 179, 180 Bộ luật Tố tụng
hình sự, các Điều 44, 45, 46 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc khởi tố, điều tra và truy tố (Quy chế 111). Quá trình thực hiện, Kiểm sát
viên cần lưu ý các dấu hiệu đặc trưng thuộc mặt khách quan của tội phạm, từ đó nhận
diện đúng phương thức, thủ đoạn chiếm đoạt tài sản, như: thủ đoạn dẫn dụ bị hại
trúng bẫy lừa đảo, phương thức dẫn dụ bị hại cung cấp thông tin cá nhân, thông
tin tài khoản, cách thức chiếm dụng quyền sử dụng điện thoại, diễn biễn của
việc truy cập trái phép vào tài khoản ngân hàng chiếm đoạt tài sản, chuyển tiền
đến các tài khoản khác vào khung thời gian bị hại tố cáo bị chiếm đoạt tài sản.
Kiểm sát viên nên biểu thị diễn biến của việc chiếm đoạt thông qua vẽ sơ đồ,
điều này sẽ phục vụ đắc lực trong đề ra các yêu cầu điều tra tiếp theo đảm bảo
cho việc truy tố, xét xử vụ án. Đối với vụ án có đồng phạm, cần yêu cầu thu
thập tài liệu làm rõ trình độ chuyên môn về công nghệ thông tin (văn bằng,
chứng chỉ chuyên môn) của các đối tượng chịu trách nhiệm tạo lập trang Web lừa đảo (sàn giao địch tiền ảo; trang Web
chơi game, tải các mã độc có tính năng gây hại cho máy tính rồi chỉnh sửa, kích
hoạt đe dọa phát tán nếu không chuyển tiền, …); vị trí, vai trò của các đối
tượng này trong vụ án, bắt buộc phải tiến hành hoạt động thực nghiệm điều tra,
cho các đối tượng thao tác trên thiết bị điện tử có tính năng tương đồng (trước
khi thực nghiệm có thể cho các đối tượng khai chi tiết về các thao tác cụ thể,
chỉ rõ các biểu tượng trên các thanh công cụ theo mô hình bản vẽ).
4. Phân biệt với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản
Trong
các tội quy định về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn
thông thì tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 290 Bộ luật Hình sự và tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự có một số dấu
hiệu pháp lý tương đồng nhau. Thực tiễn áp dụng cũng đã phát sinh xung đột về
quan điểm định tội danh giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến
hành tố tụng. Để đảm bảo cho việc xác định tội danh chính xác, Kiểm sát viên
cần lưu ý một số dấu hiệu chính về yếu tố chủ thể, khách thể và hành vi khách
quan của tội phạm khi giải quyết hai tội danh này như sau:
- Về yếu tố chủ
thể: đối với tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản đã được mở rộng đến đối tượng phạm tội từ
đủ 14 đến dưới 16 tuổi cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 290 Bộ
luật Hình sự. Đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể thực hiện tội
phạm là chủ thể thường, từ đủ 16 tuổi trở lên.
- Về yếu tố khách
thể: tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự có điểm khác
nhau cơ bản so với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đó là ngoài khách thể cùng xâm
hại đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức, tội danh theo Điều
290 Bộ luật hình sự còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội và an ninh mạng.
Đối tượng tác động chủ yếu của tội phạm Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản chủ yếu là tiền trong
tài khoản ngân hàng (đảm bảo đặc điểm nhanh chóng chiếm đoạt tiền trong tài
khoản của nạn nhân).
- Về yếu tố khách
quan: trong tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, bắt buộc người phạm tội phải thông qua
việc sử dụng công cụ là mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử,
như: tạo lập trang Web giao dịch huy động vốn theo kiểu kinh doanh đa cấp (sàn
Hittoption.net); chiếm đoạt thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của tổ chức,
cá nhân (có thể được thực hiện thông qua các thủ đoạn trộm cắp, lừa đảo để có
được thông tin, mật khẩu), sau đó người phạm tội sử dụng chính các thông tin
này nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân; truy cập bất hợp
pháp vào tài khoản chiếm đoạt tiền của chủ tài khoản hoặc làm giả thẻ ngân hàng
chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ. Khác với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội
có cấu thành vật chất, thì tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 290 Bộ
luật hình sự là tội có cấu thành hình thức.
Trên đây là một số
kinh nghiệm nhận diện dấu hiệu đặc trưng của tội Sử dụng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, quy định tại
Điều 290 Bộ luật hình sự, từ đó phân biệt với tội Lừa dảo chiếm đoạt tài sản
thông thường và một số lưu ý đối với công tác kiểm sát trong quá trình thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử khi giải
quyết các vụ việc, vụ án theo tội danh quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự.
Trân trọng trao
đổi cùng các đồng nghiệp./.
Lương Thị Thúy Dung, Phòng 2
Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng