Kỹ năng kiểm sát bản án dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
Việc kiểm sát bản án dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành kiểm sát. Kỹ
năng kiểm sát bản án không chỉ đòi hỏi kiến thức chuyên môn sâu rộng, mà còn
yêu cầu khả năng phân tích, đánh giá một cách toàn diện và khách quan các tình
tiết của vụ án. Với vai trò là
người bảo vệ pháp luật, Kiểm sát viên
cần đảm bảo rằng quá trình xét xử được thực hiện đúng pháp luật, các quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên được bảo vệ, và các sai sót, vi phạm trong quá trình
xét xử được phát hiện và khắc phục kịp thời.
Kiểm sát bản án dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật là một
công việc đòi hỏi sự cẩn trọng và trách nhiệm cao. Trong môi trường pháp lý phức
tạp, kiểm sát viên phải thường xuyên cập nhật, nắm bắt các quy định pháp luật mới
nhất và áp dụng chúng một cách chính xác vào từng vụ án cụ thể. Việc này không
chỉ giúp đảm bảo tính pháp lý của các quyết định xét xử mà còn góp phần nâng
cao uy tín và hiệu quả của ngành Kiểm sát.
Công tác kiểm sát bản án sơ thẩm dân sự của Tòa
án là một trong những nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân khi kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự được quy định tại luật
Tổ
chức Viện
kiểm sát nhân dân, Bộ luật Tố tụng dân sự, quy định về quy trình, kỹ năng kiểm sát
bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự của tòa án (ban hành kèm theo quyết
định số 399/QĐ-VKSTC ngày 06/9/2019 của viện trưởng VKSND tối cao). Theo đó,
ngay sau khi nhận được bản án do tòa án chuyển đến, kiểm sát viên được phân
công kiểm sát tiến hành lập phiếu kiểm sát theo quy định, kiểm sát chặt chẽ thời
gian gửi, hình thức bản án, quyết định và nội dung bản án có đảm bảo quy định của
pháp luật không. Cụ thể:
1. Kiểm sát thời hạn gửi bản án: trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên án, tòa án phải giao hoặc
gửi bản án cho viện kiểm sát cùng cấp theo quy định tại khoản 2 điều 269 Bộ luật
Tố tụng dân sự. Kiểm sát viên căn cứ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày gửi theo dấu
bưu điện trên bưu kiện nhận và ngày viện kiểm sát nhận được bản án sơ thẩm để
xác định vi phạm của tòa án.
2. Kiểm sát hình thức bản án: bản án được trình bày theo mẫu số 52 trong danh mục 93 biểu mẫu
trong tố tụng dân sự ban hành kèm theo Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP do Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành quy định về biểu mẫu trong tố tụng
dân sự. Bản án phải có đầy đủ nội dung quy định tại khoản 2 điều 266 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
3. Kiểm sát nội dung bản án
A) Đối với phần mở đầu của bản án:
- Về quan hệ tranh chấp:
trên cơ sở nội dung trình bày của các đương sự tại phần nội dung vụ án của bản
án, căn cứ các điều 26, 28, 30 và 32 Bộ luật Tố tụng dân sự, Kiểm sát viên xác
định quan hệ tranh chấp và đánh giá việc Tòa án xác định
quan hệ tranh chấp có đúng không.
- Về thời hạn chuẩn bị xét xử: căn cứ thời gian tòa án thụ lý vụ án để xác định thời hạn tòa án
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm có đúng quy định tại khoản 1 điều 203
Bộ luật Tố tụng dân sự không. Trong trường hợp gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm, cần chú ý lý do gia hạn vụ án (vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự
kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan không). Thời hạn tính bằng “tháng” thì
xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự.
- Về thời hạn mở phiên tòa: căn cứ ngày tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm để
xác định thời hạn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm có đúng quy định tại khoản 4 điều
203 Bộ luật Tố tụng dân sự không. Trong trường hợp phiên tòa sơ thẩm hoãn theo
quy định tại điều 233 Bộ luật Tố tụng dân sự hoặc tạm ngừng phiên tòa sơ thẩm
theo quy định tại điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự thì phải kiểm sát thời gian mở
lại phiên tòa. Trường hợp vụ án được gia hạn thời hạn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm,
phải xác định, đánh giá lý do của việc gia hạn có phải là lý do chính đáng
không.
- Về thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm: Kiểm sát viên đối chiếu thành phần hội đồng xét xử, tư cách pháp
lý của thành viên hội đồng xét xử có đúng hoặc không đúng theo quyết định đưa vụ
án ra xét xử. Chú ý trường hợp phải từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng,
đặc biệt đối với thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký tòa án đã tham gia giải
quyết vụ án được quy định tại khoản 3 điều 53, khoản 2 điều 54 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
- Về tư cách, sự có mặt của
đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch… có đúng, đủ theo quyết định
đưa vụ án ra xét xử không. Trường hợp vắng mặt đương sự, người đại diện, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cần xác định lý do vắng mặt để
kiểm sát việc tòa án hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử có đúng quy định
tại điều 227 và điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự không. Trường hợp người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch vắng mặt tại phiên tòa thì kiểm sát việc xử
lý của tòa án theo quy định tại các điều 229, 230 và 231 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của
đương sự và người tham gia tố tụng khác: Kiểm sát viên kiểm sát bằng cách đối chiếu với các tài liệu có
trong hồ sơ (giấy khai sinh, chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu, bệnh án,…) để
xác định độ tuổi, năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của đương sự. Chú ý
xem xét, đánh giá về thủ tục ủy quyền, nội dung ủy quyền, phạm vi ủy quyền
trong vụ án có người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng.
- Về thời hiệu khởi kiện: căn
cứ quy định tại khoản 1 điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự để kiểm sát về thời hiệu
khởi kiện. Lưu ý chỉ áp dụng thời hiệu theo yêu cầu của một hoặc các bên đương
sự và yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ
thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự, đồng thời kiểm sát việc Tòa
án xác định thời điểm để tính thời hiệu khởi kiện. Trường hợp áp dụng thời hiệu
khởi kiện, Kiểm sát viên căn cứ vào các điều 132, 429, 588, 623 và 671 Bộ luật
Dân sự và pháp luật có liên quan để xác định thời hiệu khởi kiện theo từng loại
tranh chấp tương ứng. Đồng thời, lưu ý thời gian không tính vào thời hiệu khởi
kiện vụ án dân sự theo quy định tại điều 156 Bộ luật Dân sự.
- Về quyền khởi kiện, phạm vi khởi kiện, nội dung khởi kiện của
nguyên đơn; yêu cầu phản tố của bị đơn; yêu cầu độc lập của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan: căn cứ vào
quy định tại các điều 186, 187, 188, 189, 200, 201 và 202 Bộ luật Tố tụng dân sự,
trên cơ sở nội dung đơn khởi kiện, đơn phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thể hiện
tại phần nội dung vụ án của bản án để xác định quyền khởi kiện, phạm vi khởi kiện,
nội dung khởi kiện của nguyên đơn; yêu cầu phản tố của bị đơn; yêu cầu độc lập
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đúng hay không đúng quy định. Trường
hợp đơn khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập chưa rõ thì xem xét trong
quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã làm
rõ hay chưa. Kiểm sát việc Toà án giải
quyết vụ án đúng hoặc không đúng phạm vi yêu cầu, đề nghị của đương sự. Có đưa
đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng không.
B) Đối với phần nội dung vụ án trong bản án:
Kiểm sát viên lưu ý nội dung yêu cầu của đương sự đối với Tòa
án trong quá trình giải quyết vụ án được nêu trong đơn khởi kiện của nguyên
đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan và việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trong quá trình giải
quyết vụ án thể hiện trong bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải,
lời trình bày của đương sự tại phiên tòa. Các chứng cứ mà đương sự xuất trình để
bảo vệ cho các yêu cầu của mình có đáp ứng đủ các thuộc tính của chứng cứ không
(tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp). Bản án phải thể hiện đầy đủ,
ngắn gọn nội dung các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án, những tình tiết,
sự kiện không phải chứng minh, những tình tiết mà các bên đã thống nhất hoặc
không thống nhất và lập luận của tòa án về việc chấp nhận các tài liệu có giá
trị chứng cứ hay không như: biên bản định giá, kết luận giám định,…
C) Đối với phần nhận định của tòa án trong bản án (về áp dụng pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung): xác định nhận
định của bản án có phù hợp hoặc không phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra, làm rõ tại phiên tòa. Tòa án có nhận định,
phân tích từng vấn đề mà đương sự yêu cầu giải quyết (yêu cầu nào có căn cứ,
yêu cầu nào không có căn cứ; yêu cầu nào phù hợp, yêu cầu nào không phù hợp với
tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và các tài liệu, chứng cứ đã được xem
xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa). Trên cơ sở đó, đối chiếu
nhận định của bản án với ý kiến của viện kiểm sát, quan điểm của luật sư (nếu
có). Kiểm sát việc Tòa án phân
tích, viện dẫn căn cứ pháp luật, án lệ (nếu có) để chấp nhận hoặc không chấp nhận
yêu cầu, đề nghị của đương sự; yêu cầu, đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân
khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (nếu có); yêu cầu, đề
nghị của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có); ý kiến của
đại diện viện kiểm sát (nếu có); giải quyết các vấn đề khác có liên quan. Kiểm
sát việc tòa án áp dụng căn cứ pháp luật để giải quyết từng nội dung cụ thể,
xác định tranh chấp phải áp dụng quy định pháp luật nào để giải quyết (bộ luật
dân sự, luật đất đai, luật nhà ở, luật hôn nhân và gia đình, luật thương mại, bộ
luật lao động, các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác có liên quan đến
việc giải quyết vụ án cùng các các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi
hành); bản án đã áp dụng đúng văn bản quy phạm pháp luật, điểm, khoản, điều của
văn bản quy phạm pháp luật hay chưa. Nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2 điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự thì kiểm sát việc tòa án phân tích, lập
luận về việc áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp
luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng có chính xác không.
D) Đối với phần quyết định của bản án: kiểm sát việc bản án tuyên về từng vấn đề phải giải quyết trong
vụ án như:
Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án
dân sự, kiểm sát viên có trách nhiệm đặc biệt trong việc xem xét tính hợp pháp
và tính có căn cứ của bản án, đặc biệt là phần quyết định. Kỹ năng kiểm sát phần
quyết định của bản án dân sự tập trung vào các nội dung then chốt sau:
- Kiểm sát việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (nếu có): Đánh giá sự phù hợp giữa quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của tòa án với các quy định của pháp luật tố tụng dân sự và tình hình thực tế của vụ án.
- Kiểm sát việc giải quyết án phí và chi phí tố tụng:
* Án phí: Đối chiếu việc Tòa án tuyên
nghĩa vụ chịu án phí với Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số
326/2016/NQ-UBTVQH14. Kiểm tra việc xử lý tiền tạm ứng án phí theo Điều 144 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
* Chi phí tố tụng: Rà soát việc Tòa
án xác định nghĩa vụ chịu các chi phí ủy thác tư pháp, xem xét thẩm định tại chỗ,
giám định, định giá tài sản, thẩm định giá, chi phí cho người làm chứng, người
phiên dịch, luật sư (nếu có). Kiểm tra việc xử lý tiền tạm ứng chi phí tố tụng
có tuân thủ các Điều 151, 154, 155, 158, 159, 162, 163 và 166 Bộ luật Tố tụng
dân sự hay không.
- Kiểm sát việc tuyên quyền kháng cáo và kháng nghị: Xác định bản án đã tuyên đúng quy định về quyền kháng cáo của đương sự (Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự) và quyền kháng nghị của Viện kiểm sát (Điều 278 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự) hay chưa.
- Kiểm sát quyết định thi hành án ngay (nếu có): Trong trường hợp bản án có quyết định phải thi hành ngay, kiểm tra xem quyết định này có được ghi rõ trong bản án và có căn cứ pháp luật hay không.
- Kiểm sát bản án sơ thẩm lại: Đối với vụ án xét xử sơ thẩm lại mà bản án, quyết định trước đó đã bị hủy một phần hoặc toàn bộ theo quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, kiểm sát việc bản án sơ thẩm lại có ghi rõ vấn đề tài sản, nghĩa vụ đã được thi hành theo bản án, quyết định đã bị hủy hay không.
- Kiểm sát việc tuyên quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án và thời hiệu thi hành án: Đảm bảo bản án đã xác định rõ quyền yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án và thời hiệu thi hành án theo luật định. Trường hợp bản án tuyên nghĩa vụ bằng tiền, phải kiểm tra nội dung về lãi suất chậm thi hành án.
- ð Nguyên tắc chung khi kiểm sát phần quyết định: Kiểm sát viên phải đối chiếu chặt chẽ giữa phần quyết định với phần nhận định và phân tích chứng cứ của bản án. Cần đánh giá xem những nhận định của tòa án có đủ cơ sở pháp lý và thực tiễn để đưa ra các quyết định tương ứng hay không. Đặc biệt, phải kiểm tra xem tòa án đã giải quyết đầy đủ các yêu cầu của đương sự, đồng thời không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập mà các đương sự đã đưa ra.
4. Trong quá
trình thực hiện chức năng kiểm sát bản án dân sự, Kiểm sát viên có trách nhiệm
nghiên cứu, đối chiếu và so sánh một cách hệ thống giữa phần tóm tắt nội dung vụ
án, phần nhận định của Tòa án và phần quyết định của bản án. Hoạt động này nhằm
phát hiện sự thiếu sót (nội dung đã được phân tích, đánh giá tại phần nhận định
nhưng không được thể hiện trong phần quyết định hoặc ngược lại) hoặc sự mâu thuẫn
giữa các phần cấu thành bản án. Trường hợp phát hiện các vi phạm về nội dung hoặc
hình thức tố tụng này, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án
để tiến hành nghiên cứu chuyên sâu, bảo đảm tính thống nhất, đầy đủ và chính
xác của bản án theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, cần đối chiếu và xác minh sự phù hợp giữa yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố và đề nghị của bị đơn, yêu cầu độc lập và
đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được ghi nhận trong bản án với
các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án và chuyển giao cho Viện
kiểm sát nghiên cứu trước khi tham gia phiên tòa, cũng như các tài liệu, chứng
cứ mà đương sự đã cung cấp tại phiên tòa và lời trình bày của họ. Việc so sánh
ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đã phát biểu tại phiên tòa với nội dung được
thể hiện trong bản án là một bước quan trọng để bảo đảm sự tuân thủ nguyên tắc
tranh tụng và ghi nhận đầy đủ quan điểm của Viện kiểm sát. Đặc biệt, cần xem
xét nội dung nhận định của Tòa án về việc đương sự cung cấp chứng cứ tại phiên
tòa và các tình tiết mới phát sinh (nếu có). Cuối cùng, việc đối chiếu phần quyết
định của bản án với nội dung đã được tuyên án tại phiên tòa là một thao tác
nghiệp vụ cần thiết để phát hiện các sai sót trong quá trình nghị án và tuyên
án.
5. Trong trường
hợp Hội đồng xét xử tuyên án có sự sai lệch so với diễn biến thực tế tại phiên
tòa, đưa ra nhận định thiếu tính khách quan hoặc trái với nội dung phát biểu của
đại diện Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật và quan điểm giải quyết vụ
án, Kiểm sát viên có nghĩa vụ báo cáo ngay lập tức kết quả xét xử vụ án lên
lãnh đạo Viện kiểm sát. Báo cáo kết quả xét xử phải nêu rõ nội dung cụ thể của
vi phạm, viện dẫn điều luật để xác định vi phạm từ đó đề xuất quan điểm giải
quyết vụ án một cách có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
6. Khi phát hiện
bản án dân sự sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, áp dụng không
đúng quy định pháp luật, quyết định trái ngược với tình tiết khách quan, hoặc
xâm hại đến các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ, Kiểm sát viên phải phân
tích, đánh giá tình tiết, chứng cứ một cách toàn diện và khách quan và đề xuất
lãnh đạo Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm. Để thực hiện tốt kỹ
năng kiểm sát bản án, yêu cầu kiểm sát viên phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng,
kỹ năng nghiệp vụ thành thạo và khả năng suy luận logic, đối với các vụ án dân
sự, việc phân tích, đánh giá tình tiết cần được thực hiện dựa trên các nguyên tắc
pháp lý cơ bản như nguyên tắc công bằng, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
các bên và nguyên tắc tôn trọng sự thật. Thời hiệu kháng nghị tuân theo khoản 1
Điều 280 BLTTDS, trường hợp kháng nghị quá hạn do sự kiện bất khả kháng phải giải
thích rõ lý do theo khoản 3 Điều 280 BLTTDS và Điều 16 TTLT 02/2016. Để bảo đảm
hiệu quả kháng nghị, Kiểm sát viên có thể đề xuất thu thập thêm chứng cứ theo
khoản 6 Điều 97 BLTTDS. Trong tình huống đặc biệt cần giám định lại, phải báo
cáo và đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao quyết định theo khoản 5 Điều 102
BLTTDS.
7. Kỹ năng soạn
thảo kháng nghị, kiến nghị: Trường hợp qua kiểm sát, Viện trưởng VKS cấp có thẩm
quyền đồng ý với đề xuất của KSV, bước tiếp theo là soạn thảo văn bản kháng nghị
phúc thẩm hoặc kiến nghị. Kiểm sát viên thường được giao dự thảo văn bản này để
lãnh đạo Viện ký ban hành. Do vậy, KSV cần biết cách trình bày văn bản kháng
nghị đúng hình thức và nội dung luật định (theo Điều 279 BLTTDS về nội dung
kháng nghị). Văn bản phải nêu rõ phần nào của bản án bị sai, vi phạm gì, căn cứ
điều luật nào, quan điểm của VKS đề nghị cấp phúc thẩm giải quyết ra sao (hủy
án, sửa án một phần hay toàn bộ). Một yêu cầu quan trọng là lập luận chặt chẽ,
bằng chứng thuyết phục, và văn phong khách quan, đúng mực. KSV phải thể hiện được
tính tranh tụng khoa học, tránh cảm tính. Đồng thời, kỹ năng này cũng bao gồm
việc kiểm tra kỹ lưỡng dự thảo để bảo đảm không sai sót về căn cứ, số liệu trước
khi trình lãnh đạo ký ban hành. Một văn bản kháng nghị chất lượng sẽ giúp Hội đồng
phúc thẩm dễ dàng chấp nhận quan điểm của VKS nếu vi phạm là rõ ràng.
8. Khó khăn, vướng mắc và kiến nghị, đề xuất
Trong quá trình kiểm sát bản án dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật, nhận thấy một số tồn tại một số khó khăn, vướng mắc sau đây:
Vướng mắc về áp lực công việc và thời gian: Số lượng vụ
án dân sự tăng cao, đặc biệt với sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra khối lượng
lớn bản án cần rà soát. Thời hạn kháng nghị ngắn (15 ngày) gây áp lực lớn, nhất
là với các vụ án phức tạp hồ sơ đồ sộ, đòi hỏi nghiên cứu kỹ lưỡng trong thời
gian eo hẹp.
Vướng mắc về năng lực cán bộ: Sự chưa đồng đều về năng lực chuyên môn giữa các Kiểm sát viên và
tâm lý e ngại trong việc đề xuất kháng nghị cũng là những yếu tố cần khắc phục
để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát án dân sự.
Vướng mắc trong phối hợp:
Tình trạng Tòa án chậm gửi bản án làm giảm thời gian kiểm sát, gây khó khăn cho
việc nghiên cứu và phát hiện vi phạm để thực hiện quyền kháng nghị.
Để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát bản án dân sự sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Nâng cao năng lực đội ngũ Kiểm sát viên: Trước tiên, cần tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng chuyên
sâu cho Kiểm sát viên về kỹ năng nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, cũng như các kỹ
năng mềm cần thiết. Việc tổ chức định kỳ các buổi đào tạo tại chỗ, xây dựng
chương trình đào tạo thực tế, phiên tòa rút kinh nghiệm chung sẽ giúp nâng cao
năng lực và hiệu quả công tác. Đồng thời, cần chú trọng xây dựng đội ngũ Kiểm
sát viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao. Xây dựng
quy trình làm việc khoa học, hợp đồng thời ứng dụng công nghệ thông tin vào các
khâu công tác cũng góp phần tối ưu hóa quy trình và giảm thiểu thời gian xử lý
công việc.
Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan liên quan: cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát đảm bảo
chặt chẽ, hiệu quả trong việc cung cấp thông tin, trao đổi nghiệp vụ và giải
quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình kiểm sát. Việc tổ chức các hội
nghị, hội thảo, giao lưu chia sẻ kinh nghiệm giữa các cơ quan sẽ góp phần nâng
cao hiểu biết và tăng cường sự hợp tác.
Công tác kiểm sát bản bản án dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật giữ vai trò quan trọng trong công việc đảm bảo tính khách quan đúng đắn của
hoạt động xét xử, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để nâng cao
chất lượng kiểm sát trong khâu công tác này cần sự phối hợp đồng bộ giữa nâng
cao năng lực Kiểm sát viên, cải tiến quy trình nghiệp vụ và tăng cường phối hợp
liên ngành.
Đinh Thị Ngọc Linh – VKSND thành phố Thuỷ
Nguyên