Thủy Nguyên: Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ
Để nâng cao chất lượng trong việc quản lý, giải quyết các vụ án tạm đình chỉ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên đã áp dụng nhiều giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả công tác kiểm sát các vụ án tạm đình chỉ và việc giải quyết các vụ án khi đủ điều kiện.
So với Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 (BLTTHS) thì việc tạm đình chỉ điều tra vụ án theo quy định của BLTTHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) đã bổ sung thêm hai trường hợp tạm đình chỉ điều tra vụ án là: 1) Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra; 2) Khi không thể kết thúc điều tra vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh nhưng đã hết thời hạn điều tra. Điều này phù hợp với thực tiễn có những phát sinh, nằm ngoài dự tính của các nhà lập pháp như do sự kiện bất khả kháng, do thiên tai, dịch bệnh nhưng lại không có căn cứ để tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án vì luật không có quy định, trong khi đó thời gian qua do vấn đề dịch bệnh Covid-19 trên toàn cầu cả nước phải chung tay phòng chống dịch bệnh, nhiều biện pháp được đưa ra, trong đó có việc thực hiện giãn cách xã hội theo chỉ thị của Thủ tướng chính phủ, đã nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến thời hạn giải quyết vụ án.
Trước khi Thông tư liên tịch số 01/2020/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BNN&PTNT-BTC-BTP
quy định phối hợp thực hiện một số điều của bộ luật tố tụng hình sự về quản lý,
giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ (sau đây viết tắt là Thông tư số 01)
được ban hành, việc giải quyết các vụ án tạm đình chỉ được áp dụng không thống
nhất giữa các địa phương, đặc biệt là những vụ án, vụ việc không xác định được
bị can, nên số lượng vụ án, vụ việc phải quản lý là tương đối lớn. Qua 03 năm
thực hiện TTLT số 01/2020, việc giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ được
đảm bảo kịp thời, thống nhất, đúng quy định; số lượng vụ án, vụ việc còn phải
theo dõi, quản lý đã giảm tương đối nhiều. Để đạt được kết quả trên, VKSND
huyện Thủy Nguyên đã áp dụng các giải pháp như sau:
1. Công
tác chỉ đạo, điều hành
Để thực hiện tốt, có hiệu quả việc quản lý
đối với các vụ, việc tạm đình chỉ, ngay sau khi thông tư được ban hành, lãnh
đạo đơn vị đã quán triệt, triển khai đến toàn thể cán bộ, công chức trong đơn
vị; đồng thời, phân công tổ nghiệp vụ thực hiện chuyên đề kiểm sát án tạm đình
chỉ điều tra gồm có 01 đồng chí Phó Viện trưởng và 02 đồng chí Kiểm sát viên.
Tổ nghiệp vụ có trách nhiệm quản lý, cập nhật thông tin kết quả giải quyết,
thống kê toàn bộ số lượng án tạm đình chỉ, quản lý và lưu trữ hồ sơ, sổ sách,
báo cáo kết quả thực hiện chuyên đề định kỳ hoặc theo yêu cầu đột xuất của
VKSND thành phố.
Kiểm sát viên thụ lý, kiểm sát việc giải
quyết vụ án, vụ việc có trách nhiệm thông báo và nộp lưu hồ sơ cho bộ phận
nghiệp vụ để vào sổ theo dõi, quản lý vụ án, vụ việc, lý do tạm đình chỉ. Khi
lý do tạm đình chỉ không còn thì Kiểm sát viên thụ lý thông báo cho tổ nghiệp
vụ, nhận lại hồ sơ để tiếp tục thực hiện các hoạt động tố tụng tiếp theo. Lãnh
đạo Viện thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các hoạt động này, đảm bảo các hồ sơ
tạm đình chỉ đều có căn cứ, đúng quy định pháp luật, việc quản lý, lưu trữ hồ
sơ đúng quy trình mà đơn vị đã đề ra, kịp thời báo cáo Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Hải Phòng đúng thời hạn quy định.
2.
Công tác phối hợp với Cơ quan điều tra để nâng cao chất lượng công tác giải
quyết các vụ án tạm đình chỉ
Đơn vị đã chủ động phối hợp với Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên rà soát số vụ việc tạm đình chỉ
đang quản lý, trong đó đơn vị đã ban hành nhiều công văn trao đổi phối hợp với
Cơ quan điều tra trong việc tiến hành rà soát, thống kê các vụ án, vụ việc tạm
đình chỉ. Cơ quan điều tra đã chủ động rà soát lại hệ thống sổ sách ghi chép,
lập danh sách hồ sơ án tạm đình chỉ, đối chiếu với danh sách án tạm đình chỉ
của Viện kiểm sát. Kết quả đối chiếu số liệu, cả hai cơ quan đều trùng khớp về
danh sách các vụ án tạm đình chỉ. Trên cơ sở danh sách các vụ án, vụ việc tạm
đình chỉ đã được rà soát, đối chiếu, Cơ quan điều tra đã chủ động tìm rút hồ sơ
lưu trữ nghiên cứu, họp thống nhất với Viện kiểm sát ra Quyết định đình chỉ đối
với các vụ án hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng chưa chứng minh
được bị can theo đúng hướng dẫn của thông tư liên tịch (trong đó đã đình chỉ: 49 vụ/00 bị can, lý do: hết thời
hiệu truy cứu TNHS), qua đó góp phần giảm bớt số vụ án tạm đình chỉ đang quản
lý theo dõi nhưng đảm bảo có căn cứ pháp luật. Bên cạnh đó, đối với số hồ sơ bị
thất lạc, Viện kiểm sát đã có công văn đôn đốc đề nghị Cơ quan cảnh sát điều
tra phối hợp với phòng hồ sơ tiếp tục truy tìm các hồ sơ bị thất lạc, kết quả
đến nay đã tìm được 56 trên tổng số 92 hồ sơ thất lạc đủ điều kiện để đình chỉ
điều tra theo luật định, đạt tỷ lệ 60,9%.
3. Kỹ
năng kiểm sát hồ sơ tạm đình chỉ nhưng đã hết thời hiệu của Kiểm sát viên
Để làm tố công tác kiểm sát các vụ án tạm
đình chỉ nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì khi nhận được
hồ sơ tạm đình chỉ cùng quyết định đình chỉ điều tra do hết thời hiệu của Cơ
quan điều tra chuyển sang. Tổ nghiệp vụ được phân công theo dõi, báo cáo án tạm
đình chỉ có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, lập danh sách báo cáo đề xuất lãnh đạo
phân công cho các kiểm sát viên, trên cơ sở những vụ án nào trước đây do kiểm
sát viên trực tiếp thụ lý thì tiếp tục nghiên cứu, trường hợp các kiểm sát viên
đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác thì phân công cho các kiểm sát viên khác
nghiên cứu, việc làm này làm giảm tải bớt số lượng vụ án phải nghiên cứu cho tổ
nghiệp vụ, đồng thời đáp ứng yêu cầu về thời hạn nghiên cứu hồ sơ.
Các kiểm sát viên được phân công sẽ nghiên
cứu toàn diện hồ sơ vụ án, trong đó chú trọng đến thời hiệu để áp dụng giải
quyết đảm bảo nguyên tắc có lợi về thời hiệu theo hướng dẫn của TTLT 01/2020 đó
là việc xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự căn cứ vào quy định tại
Điều 27, Điều 28 Bộ luật Hình sự và phân loại tội theo khoản, điều của Bộ luật
Hình sự ghi trong quyết định khởi tố vụ án. Trường hợp quyết định khởi tố vụ án
chỉ ghi điều luật, không ghi khoản và quá trình điều tra chưa chứng minh làm rõ
được hành vi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật đó
thì việc xác định thời hiệu căn cứ vào khung hình phạt trong cấu thành cơ bản
của điều luật đó. Bên cạnh đó, Kiểm sát viên cần chú trọng rà soát các vật
chứng, đồ vật, tài sản đã tạm giữ trong vụ án, đã xử lý chưa? hay còn tồn đọng
tại Cơ quan điều tra. Sau khi nghiên cứu toàn diện, triệt để sẽ báo cáo đề xuất
lãnh đạo xét duyệt và chuyển lại tổ nghiệp vụ để thống kê, chuyển các hồ sơ tạm
đình chỉ sang đình chỉ để quản lý phục vụ công tác lưu trữ, kiểm tra.
4.
Khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện TTLT 01/2020
Việc thực hiện TTLT số 01/2020 đã giải
quyết được phần nào những khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng
của địa phương, nhưng thực tiễn cho thấy còn những vướng mắc thực tế đến nay
vẫn chưa có phương án giải quyết, do luật chưa quy định hoặc chưa có hướng dẫn
cụ thể, điển hình như:
4.1.
Đối với trường hợp hồ sơ tạm đình chỉ bị thất lạc
Quá trình tạm đình chỉ và quản lý hồ sơ
thường xảy ra trong thời gian dài, có những vụ án, vụ việc khi giải quyết nguồn
tin hoặc đã khởi tố vụ án nhưng việc xác minh, điều tra chưa có kết quả, thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự có thể lên đến 15 năm, thậm chí 20 năm. Quá
trình bảo quản hồ sơ không tốt, cán bộ được phân công thụ lý thì thường xuyên
có sự điều động, luân chuyển để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, công
tác bàn giao không được thực hiện chặt chẽ hoặc quá trình chuyển đổi, xây dựng
trụ sở, cơ quan đơn vị phải di dời hồ sơ, tài liệu đã dẫn tới việc bị thất lạc,
mất hồ sơ. Trong khi đó, căn cứ vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì
thời hạn điều tra đã hết, nhưng việc không có hồ sơ để làm căn cứ ra quyết định
đình chỉ nên các các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có cơ sở để kết thúc điều
tra mặc dù thời hạn luật định thì cho phép. Trước khó khăn, vướng mắc trên, tại
khoản 10 mục II Công văn số 2010/HDLN ngày 18/5/2021 của Văn phòng Cơ quan Cảnh
sát điều tra Bộ Công an – Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma
túy Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải đáp vướng mắc trong quá trình giải
quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ, vụ việc tạm dừng giải quyết hướng dẫn: “Đối với các trường hợp vụ án, vụ việc tạm
đình chỉ điều tra bị thất lạc hồ sơ, Cơ quan điều tra cần phối hợp với các đơn
vị chức năng (Cơ quan hồ sơ nghiệp vụ, Viện kiểm sát, Tòa án cùng cấp…), liên
hệ các đồng chí được phân công thụ lý, giải quyết vụ việc, vụ án trước đây…để
tổ chức truy tìm hồ sơ bị thất lạc. Mặt khác, cần làm rõ trách nhiệm của lãnh
đạo, Điều tra viên, cán bộ điều tra trong quá trình điều tra, giải quyết vụ
việc, vụ án để xử lý theo quy định của ngành.”
Thực tế,
qua rà soát các vụ án tạm đình chỉ tại đơn vị đã gặp những khó khăn trên,
qua trao đổi nghiệp vụ, Cơ quan điều tra có ý kiến cho rằng đối với những hồ sơ
bị thất lạc sẽ báo cáo xin ý kiến thực hiện việc phục dựng để tiếp tục giải
quyết. Chúng tôi nhận thấy rằng trong một khoảng thời gian dài việc nộp lưu hồ
sơ của các đồng chí Điều tra viên nghỉ hưu, chuyển công tác...không được ghi
chép đầy đủ, chi tiết; việc nộp lưu không được lập biên bản, đăng ký hồ sơ nộp
lưu nên khi tìm rút hồ sơ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có những hồ sơ không thể
truy tìm được, có những vụ án xảy ra từ rất lâu nên việc phục dựng nếu không
dựa trên cở sở khách quan, toàn diện và đầy đủ thì sẽ không có giá trị pháp lý
để làm căn cứ ra quyết định đình chỉ điều tra do hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự. Bởi lẽ còn liên quan đến các văn bản, quyết định tố tụng có bút
tích của những người tiến hành tố tụng đối với vụ án trước đây, hiện họ đã nghỉ
hưu hoặc chuyển đơn vị công tác, cũng như các tài liệu, chứng cứ gốc có trong
hồ sơ vụ án không còn. Đối với những tài liệu này thì việc phục dựng không thể
thực hiện được.
4.2.
Đối với các trường hợp tạm đình chỉ do vướng mắc đến giám định
Một trong những lý do các vụ án tạm đình
chỉ trước đây liên quan đến vấn đề giám định hàm lượng chất ma tuý khi mà trong
một thời gian dài có nhiều thay đổi do ảnh hưởng của chính sách pháp luật Hình
sự, Tố tụng Hình sự nên nhiều trường hợp phải tạm đình chỉ chờ văn bản có hiệu
thi hành. Trong thời gian chỉnh sửa lại có nhiều văn bản hướng dẫn tạm thời
thay đổi liên tục nên dẫn đến tình trạng giải quyết vụ án không dứt khoát, ví
dụ: một số vụ án Tàng trữ trái phép chất ma túy tạm đình chỉ vụ án, bị can, do
giám định hàm lượng ma túy không đủ, mà trước đây khi các cơ quan tiến hành tố
tụng áp dụng Công văn số 234/TANDTC-HS ngày 17/9/2014 của Toà án nhân dân tối
cao với nhận định trong công văn như sau: “Tòa
án nhân dân tối cao thấy còn nhiều trường hợp Hội đồng xét xử chỉ
căn cứ vào kết quả giám định về trọng lượng của các chất nghi là
chất ma túy để kết tội các bị cáo, mà không yêu cầu xác định hàm
lượng chất ma túy trong các chất thu được đó, như vậy là áp dụng
không đúng quy định của Bộ luật hình sự và hướng dẫn của liên ngành
dẫn đến hậu quả có thể xát xử oan, sai”.
Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP
sửa đổi một số điều của Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 (TTLT số 08) của Bộ công
an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ tư pháp hướng
dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ
luật hình sự năm 1999. Tại khoản 2 Điều 1 TTLT số 08/2015 quy định chỉ bắt buộc
giám định hàm lượng trong những trường hợp sau: 1) Chất ma túy, tiền chất dùng
vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch; 2) Chất ma
túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng;
3) Xái thuốc phiện; 4) Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần. Bên cạnh đó, Nghị
quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội cũng quy định:“ Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, Bộ luật
Hình sự năm 2015 được áp dụng như sau: Trường hợp chất thu giữ được nghi là
chất ma túy ở thể rắn đã được hòa thành dung dịch, chất ma túy ở thể lỏng đã
được pha loãng, xái thuốc phiện hoặc thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần quy
định tại các Điều 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì
phải xác định hàm lượng chất ma túy làm cơ sở để xác định khối lượng hoặc thể
tích chất ma túy thu giữ được. Đối với các trường hợp khác thì thực hiện theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13″. Như vậy, việc xác
định hàm lượng chất ma tuý chỉ trong các trường hợp bắt buộc trên nhằm làm cơ
sở xác định trách nhiệm hình sự, tuy nhiên đối với các vụ án tạm đình chỉ trước
đây liên quan đến việc giám định hàm lượng ma tuý, đến nay vẫn chưa có quy định
hoặc hướng dẫn thống nhất của liên ngành tố tụng cấp trung ương, dẫn đến địa
phương không có cơ sở pháp lý để phục hồi giải quyết hoặc đình chỉ giải quyết
vụ án.
5. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án
tạm đình chỉ
Từ những kết quả đạt được và khó khăn vướng
mắc trong quá trình thực hiện TTLT 01/2020, để thực hiện có hiệu quả công tác kiểm
sát án tạm đình chỉ cần hoàn thiện những quy định như:
Thứ nhất,
Liên ngành Trung ương cần sớm có văn bản hướng dẫn thống giải quyết đối với các vụ án tạm đình chỉ do giám
định hàm lượng ma túy không đủ để khởi tố bị can trong thời gian trước đây,
nhằm giải quyết dứt điểm, tránh việc tồn đọng số vụ, việc tạm đình chỉ phải
theo dõi giải quyết theo hướng đối với các vụ án tàng trữ trái phép chất ma
tuý, trong đó cần hướng dẫn theo hướng nếu không thuộc trường hợp phải bắt buộc
giám định hàm lượng chất ma tuý thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể phục hồi
giải quyết nếu như khối lượng ma tuý đủ để chịu trách nhiệm hình sự theo quy
định Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và hướng dẫn tại TT số 08/2015 quy định về khối lượng ma tuý
tàng trữ nhưng không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy,
nhưng phải áp dụng nguyên tắc có lợi so với việc áp dụng Bộ luật hình sự năm
2015 quy định về tội danh tương ứng.
Thứ hai, Liên ngành tư pháp trung ương cần có hướng dẫn
cụ thể đối với các trường hợp vụ án, vụ việc tạm đình chỉ chưa xác định được bị
can nhưng thất lạc hồ sơ, hồ sơ không đầy đủ tài liệu làm căn cứ đánh giá để ra
quyết định tạm đình chỉ, nếu thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đã hết thì
cần phối hợp với phòng hồ sơ nghiệp vụ tiếp tục truy tìm, khi truy tìm được hồ
sơ thì có công văn kèm theo hồ sơ gửi cho Viện kiểm sát để phối hợp đánh giá
tài liệu, chứng cứ để giải quyết. Trường hợp không truy tìm được thì phòng hồ
sơ phải có công văn trả lời và nêu rõ lý do và khi đã áp dụng mọi biện pháp
truy tìm nhưng không có kết quả thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể đánh
giá dựa trên việc đối chiếu số liệu đang quản lý, hồ sơ kiểm sát, và tiến họp
liên ngành để thống nhất việc giải quyết khi vụ việc đã hết thời hiệu truy cứu
nhiệm hình sự.
Kết luận: Viện kiểm
sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên đã áp dụng nhiều giải pháp tăng cường công tác
kiểm sát án tạm đình chỉ tại đơn vị, từ đó thực hiện có hiệu qua TTLT 01/2020,
nhiều vụ án tạm đình chỉ kéo dài nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự được giải quyết dứt điểm, giảm tỷ lệ tồn đọng phải theo dõi, quản lý. Đối
với những khó khăn, vướng mắc trên chúng tôi cũng đưa ra các giải pháp để thực
hiện phú hợp với thực tiễn, nhằm hoàn thiện để đảm bảo pháp luật được thực thi
nghiêm chỉnh và thồng nhất.
Phạm Văn Tuân - Viện kiểm sát
nhân dân huyện Thuỷ Nguyên