Tính án phí dân sự trong các vụ án Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Từ lâu nay, việc cho vay tiền, tài sản dưới các hình thức cầm cố tài sản, hụi, họ v.v… giữa cá nhân với nhau là một hoạt động quen thuộc, phổ biến với người dân khi có nhu cầu về tài chính, đặc biệt là những người không đủ điều kiện vay vốn của các tổ chức tín dụng chính thống. Xuất phát từ nhu cầu chính đáng đó của người dân, một số đối tượng đã lợi dụng việc cho vay tiền thông qua giao dịch dân sự với mức lãi suất cao, tùy thuộc vào đối tượng vay, số tiền vay, khả năng tài chính, mối quan hệ giữa đối tượng cho vay và người vay v.v…vượt quá 5 lần so với mức lãi suất cao nhất của Bộ luật Dân sự và bị xử lý về tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự.

 

anh tin bai

Việc xử lý tội danh này về cơ bản không có nhiều vướng mắc trong việc định tội danh và xác định hình phạt. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các bản án của các địa phương đã xét xử được công bố trên trang công bố bản án của Tòa án nhân dân tối cao cũng như qua thực tiễn xét xử tại đơn vị, chúng tôi nhận thấy, vấn đề về án phí dân sự trong các vụ án này còn có nhiều quan điểm khác nhau và cần có sự hướng dẫn thống nhất.

Vấn đề nêu trên nảy sinh từ thực tiễn đó là, trong một vụ án cho vay lãi nặng, ngoài trách nhiệm hình sự, đa phần bị cáo còn phải chịu trách nhiệm về dân sự và/hoặc các biện pháp tư pháp khác, liên quan đến số tiền sử dụng hoặc có được từ hành vi phạm tội. Tại Điều 5 Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP ngày 20/12/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định:

Điều 5. Xử lý vật, tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm

1. Tịch thu sung quỹ nhà nước đối với:

a) Khoản tiền, tài sản khác người phạm tội dùng để cho vay;

b) Tiền lãi tương ứng mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự mà người phạm tội đã thu của người vay.

c) Tiền, tài sản khác mà người phạm tội có thêm được từ việc sử dụng tiền lãi và các khoản thu bất hợp pháp khác.

2. Trả lại cho người vay tiền thu lợi bất chính mà người phạm tội thực tế đã thu, trừ trường hợp người vay sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp (như đánh bạc, mua bán trái phép chất ma túy, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ...) thì khoản tiền thu lợi bất chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước.

Với hướng dẫn như trên, có thể xác định, ngoài số tiền bị tịch thu sung quỹ nhà nước, bị cáo còn phải trả lại cho người vay số tiền thu lợi bất chính - tức là số tiền lãi vượt quá 20% so với quy định của Bộ luật Dân sự đã thu thực tế. Như vậy, đối tượng phải nộp tiền, số tiền nộp, đối tượng hưởng tiền đã được chỉ ra, nhưng án phí dân sự đối với số tiền bị cáo phải trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (tức người vay tiền) được tính toán như thế nào thì hiện nay, có 02 quan điểm đang được áp dụng:

Quan điểm thứ nhất: bị cáo phải chịu án phí dân sự đối với số tiền bị cáo phải trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (tức người vay tiền). Có thể hiểu quan điểm này xuất phát từ nguyên lý quan hệ giữa bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (người vay tiền) là quan hệ dân sự, người vay phải trả cho bị cáo một số tiền lãi nhất định. Tuy nhiên, do nhận thức, ý thức của bị cáo và người vay thỏa thuận lãi suất vượt quá quy định pháp luật thì số tiền vượt quá 20% mà người vay đã trả cho bị cáo phải được hoàn lại cho người vay, do đây là tiền phát sinh từ thỏa thuận trái pháp luật, là “quyền và lợi ích hợp pháp” người vay được “bồi hoàn”, tương ứng với nghĩa vụ của bị cáo khi giải quyết hậu quả của hành vi trái pháp luật của bị cáo. Do đó, khi Tòa án giải quyết vấn đề này tại phiên tòa và có quyết định trong bản án thì bị cáo phải chịu án phí dân sự. Tuy nhiên, ngay đối với các cơ quan tiến hành tố tụng có quan điểm này thì việc tính toán án phí cũng có 02 phương án nảy sinh do thực tế nhiều vụ án, bị cáo không chỉ cho một mà nhiều người vay tiền. Như vậy, bị cáo sẽ phát sinh nghĩa vụ trả tiền cho không chỉ một mà là nhiều đương sự, mỗi đương sự được nhận số tiền khác nhau. Khi đó, có Tòa án sẽ cộng tổng số tiền bị cáo phải trả lại cho tất cả những người vay, sau đó áp dụng mức thu án phí theo % được quy định tại Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 để tuyên bị cáo phải chịu một khoản án phí dân sự tương ứng với tổng số tiền bị cáo phải hoàn trả cho những người vay. Tuy nhiên, có Tòa án lại tuyên án phí dân sự bị cáo phải chịu tương ứng theo số tiền bị cáo phải trả cho mỗi đương sự. Mỗi cách tính này sẽ cho ra các kết quả khác nhau, dẫn đến số tiền án phí dân sự bị cáo phải nộp là khác nhau mặc dù số tiền phải trả cho đương sự là như nhau.

Quan điểm thứ hai: bị cáo không phải chịu án phí dân sự đối với số tiền bị cáo phải trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (người vay). Quan điểm này xuất phát từ lý do, có một số vụ án, do người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, quá trình điều tra, truy tố và xét xử không có ý kiến về phần lãi vượt quá 20% đã nộp cho bị cáo nên Tòa án không xem xét giải quyết và không áp dụng án phí. Ngoài ra, cũng có Tòa án cho rằng, việc bị cáo phải trả lại phần tiền lãi vượt quá cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là biện pháp tư pháp mà bị cáo phải chịu theo Điều 46 BLHS. Do đó, cũng không coi đây là vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, nên không áp dụng án phí dân sự trong trường hợp này.

Mỗi quan điểm nêu trên đều có phần hợp lý, có căn cứ. Tuy nhiên, xét tổng thể, việc tồn tại nhiều quan điểm, cách tính toán như vậy thể hiện sự mâu thuẫn trong nhận thức và áp dụng pháp luật, có trường hợp gây bất lợi cho bị cáo, có trường hợp lại gây thất thoát cho ngân sách. Do đó, tác giả có đôi dòng về vấn đề nêu trên, rất mong nhận được sự trao đổi của các quý đồng nghiệp cũng như sự hướng dẫn của các cơ quan cấp trên để việc nhận thức và áp dụng pháp luật được thống nhất.

                                                                                                                                                                                                                          Tổ nghiên cứu, Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền

 

 

 


Ứng dụng hỗ trợ nghiệp vụ
Tin tức
Thông tin cần biết
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1

Trang thông tin điện tử: VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG - Cơ quan chủ quản: VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Địa chỉ: Lô 18A, Lê Hồng Phong, Hải An, TP Hải Phòng - Điện thoại: 02253.838308 - Fax: 02253.839072 - Email: vp_haiphong@vks.gov.vn
Trưởng ban biên tập: Phó Viện trưởng Lưu Xuân Sang
Số giấy phép: 03/GP-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông TP Hải Phòng cấp ngày 17 tháng 10 năm 2017 (Giấy phép có giá trị 10 năm)
Bản quyền thuộc về VKSND TP Hải Phòng - Thiết kế bởi VNPT | Quản trị

Chung nhan Tin Nhiem Mang