Trao đổi nghiệp vụ: Xử lý hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy trong vụ án Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

Ảnh minh họa (nguồn: Internet)
Nội dung vụ án: Khoảng 20 giờ ngày 15/7/2025, Nguyễn
Văn B đang ở nhà trọ tại khu dân cư X, phường Y, thành phố Z (do B thuê) thì Trần
Văn T, Phan Hải A và Lê Thị P (đều là bạn của B) đến chơi. Lúc này, B lấy ra 01
túi nilon, bên trong chứa ma túy loại Ketamine (do B mua của người không quen
biết trước đó) và bảo T “xào ke” để cùng sử dụng. T đồng ý và lấy ra các dụng
cụ sử dụng ma túy của B để trong tủ gồm: 01 đĩa sứ, 01 ống hút được cuộn bằng
tờ tiền polymer mệnh giá 10.000 đồng, 01 thẻ nhựa cứng màu đỏ và 01 bật lửa gas
màu đỏ. T lấy một phần ma túy ra đĩa, dùng bật lửa hơ nóng dưới đĩa, dùng thẻ
cứng miết làm mịn ma túy (gọi là “xào ke”), tạo 02 đường Ketamine (gọi là “kẻ
ke”), rồi dùng ống hút hít ma túy qua mũi vào cơ thể. Sau đó, T lần lượt kẻ 02
đường Ketamine đưa cho B và A sử dụng, còn P không sử dụng ma túy. Đến 23 giờ 20
phút cùng ngày, khi T, B và A đang sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an
phường Y bắt quả tang, thu giữ vật chứng, gồm: 01 túi nilon bên trong có chất
tinh thể màu trắng (niêm phong ký hiệu M1) và các dụng cụ nêu trên, trên bề mặt
đĩa, thẻ cứng và ống hút còn bám dính tinh thể màu trắng (niêm phong ký hiệu
M2), B và T khai là ma túy loại Ketamine chưa kịp sử dụng hết và dụng cụ sử
dụng ma túy.
Tại Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Z kết
luận: Chất tinh thể màu
trắng của mẫu M1 gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,45 gam, loại Ketamine;
tinh thể bám dính trong ống cuộn tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, trên thẻ nhựa và
trên mặt đĩa sứ của mẫu M2 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, không đủ
điều kiện cân xác định khối lượng chất ma túy bám dính.
Kết quả xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể ngày 16/7/2025
thể hiện: Nguyễn Văn B, Trần Văn T và Phạm Hải A đều dương tính chất ma túy
Ketamine; Lê Thị P âm tính với các chất ma túy.
Như vậy, Nguyễn Văn B có hành vi dùng địa điểm do mình quản lý, cung cấp
chất ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy; Trần Văn T có hành vi lấy dụng cụ sử
dụng ma túy, chuẩn bị chất ma túy (“xào ke”, “kẻ ke”) để B, T và A cùng sử dụng trái phép chất ma túy loại Ketamine, thì bị lực
lượng Công an bắt quả tang, thu giữ 0,45 gam ma túy loại Ketamine chưa kịp sử
dụng hết và các dụng cụ sử dụng ma túy. B và T đều có đầy đủ năng lực trách
nhiệm hình sự. Căn cứ hướng dẫn tại các Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020,
số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân tối cao; Công văn số
5442/VKSTC-V14 ngày 30/11/2020, số 2667/VKSTC-V4 ngày 12/6/2025 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao thì hành vi nêu trên của B và T đã đủ yếu tố cấu thành tội
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255
Bộ luật Hình sự (Đối với 02 người trở lên). Trong đó, B là người
khởi xướng, cung cấp địa điểm, chất ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy nên giữ vai trò chính; T đồng phạm với vai trò thực hành
tích cực; A chỉ là người thụ hưởng (được cho sử dụng ma túy), không có hành vi
nào khác nên không phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Việc xử lý đối
với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của B, T và A trong vụ án Tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy nêu trên, trong thực tiễn giải quyết còn chưa thống
nhất, hiện có 02 quan điểm như sau:
* Quan điểm
thứ nhất: B và T đã bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không xử lý về hành vi
Sử dụng trái phép chất ma túy; chỉ xử lý hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy
đối với người thụ hưởng là A.
Vì: B và T có nhu cầu sử dụng ma túy nên mới có các hành vi Tổ chức sử dụng
trái phép chất ma túy để cho bản thân B, T sử dụng và cho người khác sử dụng
nếu họ có nhu cầu (trong trường hợp này A được mời và đã tự sử dụng). Động cơ, mục
đích phạm tội của B và T là thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân và của
người khác. Do vậy, đã xử lý hình sự đối với B và T về tội Tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy thì không xử lý vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái
phép chất ma túy nữa. Đối với A không phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy, là người thụ hưởng, có hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy nên bị xử
lý theo quy định pháp luật. Trường hợp A thuộc một trong các trường hợp theo
quy định tại Điều 256a Bộ luật Hình sự (được sửa đổi, bổ sung theo Luật số
86/2025/QH15 ngày 25/6/2025) thì A phạm tội Sử dụng trái phép chất ma túy.
Trường hợp A không đủ yếu tố cấu thành tội Sử dụng trái phép chất ma túy theo
quy định tại Điều 256a Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2025), sẽ bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi này theo quy định tại Điều 23 Nghị định
144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ hoặc bị xử lý theo quy định của Luật
phòng, chống ma túy năm 2021.
* Quan điểm
thứ hai cũng là quan điểm của tác giả: B, T và A đều phải bị xử lý về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy theo
quy định của pháp luật. Việc B và T bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy không loại trừ trách nhiệm đối với hành vi
Sử dụng trái phép chất ma túy. Vì:
- Thứ nhất, tại khoản 10 Điều 2 Luật phòng, chống ma túy quy định: “Người sử
dụng trái phép chất ma túy là người có hành vi sử dụng chất ma túy mà không
được sự cho phép của người hoặc cơ quan chuyên môn có thẩm quyền và xét nghiệm
chất ma túy trong cơ thể có kết quả dương tính”. Như vậy, trong vụ án nêu trên
B, T và A đều là “Người sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngoài hành vi tự sử
dụng trái phép chất ma túy thì B còn có hành vi cung cấp địa điểm, chất ma túy,
công cụ sử dụng ma túy; T có hành vi chuẩn bị chất ma túy, đây là các hành vi
cấu thành tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Việc bản thân B hoặc T có
sử dụng trái phép chất ma túy hay không thì cũng không ảnh hưởng đến việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với B và T về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy.
- Thứ hai, tại
các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao nêu trên và thực tiễn xét xử đối với tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy theo quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự thì hành vi tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy là hành vi tổ chức cho người
khác sử dụng trái phép chất ma túy, tức là chỉ tính người được tổ chức sử
dụng ma túy, không bao gồm bản thân người phạm tội. Trong vụ án nêu trên, B là
người tổ chức cho T và A; T là người tổ chức cho B và A sử dụng trái phép chất
ma túy, đủ cấu thành tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, theo quy định
tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.
Do đó, hành
vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và hành vi Sử dụng trái phép chất ma
túy của B và T là hai hành vi độc lập, việc xử lý hành vi này không loại trừ
trách nhiệm của hành vi còn lại. Ngoài việc xử lý hình sự đối với B và T về tội
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra cần làm rõ để khởi tố
đối với B và T về tội Sử dụng trái phép chất ma túy nếu thuộc một trong các
trường hợp theo quy định tại Điều 256a Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm
2025) hoặc xử lý vi phạm hành chính theo quy định
Luật phòng, chống ma túy năm 2021, Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của
Chính phủ.
Như vậy, từ việc không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến
không đảm bảo nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong việc xử lý hành vi phạm
tội, vi phạm pháp luật. Để giải quyết các vụ án Tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy khách quan, toàn diện, triệt để, không bỏ lọt hành vi phạm tội, hành vi vi
phạm pháp luật, Cơ quan điều tra cần thiết làm rõ để xử lý hành vi Sử dụng trái
phép chất ma túy của tất cả các đối tượng là “Người sử dụng trái phép chất ma
túy” theo đúng quy định của pháp luật, không loại trừ trường hợp nào. Qua bài
viết, tác giả mong muốn nhận được ý kiến tham gia của đồng nghiệp, sự quan tâm,
chỉ đạo của liên ngành cấp trên để đảm bảo thống nhất trong việc nhận thức và
áp dụng pháp luật.
Bùi Thị
Nhuần - Phó Viện trưởng Viện KSND khu vực 10 - Hải Phòng