Về tình tiết “xúi giục người chưa thành niên phạm tội” theo quy định tại điểm o Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự
Điểm o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (BLHS
năm 2015) quy định “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” là một tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đây là quy định được kế thừa từ BLHS
năm 1999, tuy nhiên, đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn áp dụng cụ thể, dẫn đến còn
nhiều quan điểm khác nhau về cách hiểu và áp dụng trên thực tiễn. Trong khuôn
khổ của bài viết này, tôi muốn đưa ra một nội dung còn thiếu thống nhất để cùng
các đồng chí thảo luận.
Theo khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015,
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định tại 28 tội
danh cụ thể của bộ luật này (Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168,
169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290,
299, 303 và 304). Như vậy, người chưa đủ 16 tuổi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm, nhưng nếu không thuộc phạm
vi 28 tội danh nêu trên thì hành vi của họ cũng không cấu thành tội phạm. Trong
trường hợp này, vấn đề đặt ra là đối tượng xúi giục, dụ dỗ, rủ rê, lôi kéo người
chưa đủ 16 tuổi cùng thực hiện hành vi ngoài 28 tội danh này, có phải chịu
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm
tội” theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 của BLHS năm 2015 hay không?
Ví dụ: A, B (đều đã trên 18 tuổi) cùng bàn bạc, thống nhất đi tìm
xem nhà nào sơ hở để trộm cắp tài sản. A biết rõ C chưa đủ 16 tuổi nhưng thấy C
có dáng người bé nhỏ, phù hợp với việc chui qua khoảng nhỏ, dễ đột nhập vào nhà
người khác để trộm cắp tài sản nên A chủ động rủ rê, lôi kéo C tham gia và
không nói cho B biết. Quá trình theo dõi nhà D, biết gia đình đi vắng, A rủ cả
nhóm đến trộm cắp tài sản. A gọi điện bảo B đi đến từ phía cổng trước và đứng cảnh
giới tại đây. Còn A cùng C chui qua hàng rào phía sau, đột nhập vào nhà, lén
lút chiếm đoạt của D 01 máy tính xách tay, qua định giá có giá trị là
10.000.000 đồng. Sau khi hoàn thành việc trộm cắp, A gọi điện hẹn B rút về tập
trung tại nhà A, lúc này B mới biết có C cùng tham gia. Do C dưới 16 tuổi nên
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Trộm cắp tài sản. Còn A, B đã bị
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 173 BLHS. Về đường lối xử lý đối với A, hiện có 2 quan điểm khác
nhau trong việc áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xúi giục
người dưới 18 tuổi phạm tội” theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52
của BLHS năm 2015.
Quan
điểm thứ nhất cho rằng: Do
hành vi của C không cấu thành tội phạm, nên A không phải chịu tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” theo quy
định tại điểm o khoản 1 Điều 52 của BLHS năm 2015. Bởi lẽ, như chính cách
viết từ ngữ của điều luật này, hành vi của C phải đủ yếu tố cấu thành tội phạm
cụ thể thì A mới phải chịu trách nhiệm về việc xúi giục C phạm tội và bị áp
dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này. Hơn nữa, theo nguyên tắc có
lợi cho bị can, bị cáo, nếu còn cách hiểu khác nhau về điều luật, mà pháp luật
chưa có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể, thì không áp dụng tình tiết tăng nặng “Xúi
giục người dưới 18 tuổi phạm tội” để không gây bất lợi hơn cho A.
Quan điểm thứ hai cho rằng: BLHS quy
định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự để tăng tính răn đe, có
chính sách xử lý nghiêm khắc hơn đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng
hơn đáng kể. Có thể thấy, việc xúi giục, dụ dỗ, rủ rê, lôi kéo người dưới 16
tuổi thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và các hành
vi phạm tội nói riêng là nguy hiểm hơn hẳn trường hợp bình thường. Bởi lẽ,
người ở độ tuổi này chưa phát triển đầy đủ về nhận thức, tâm, sinh lý…, dễ bị
lôi kéo, kích động, khi nhận thức chưa thấu đáo, hành động có thể còn nông nổi,
nguy hiểm hơn người đã trưởng thành. Vì vậy, đối tượng xúi giục dưới 16 tuổi thực
hiện các hành vi vi phạm pháp luật, không chỉ tăng tính nguy hiểm cho khách thể
bị xâm hại mà về lâu dài, còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát
triển đúng đắn về nhận thức, tâm, sinh lý của các em, lôi kéo vào lối sống sai
trái, khó giáo dục, sửa chữa… Thực tế, do sự xúi giục của đối tượng này, người
dưới 16 tuổi đã thực hiện hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, khách thể do
BLHS bảo vệ đã bị xâm hại, chỉ vì yếu tố nhân thân (độ tuổi), theo quy định
nhân đạo của Pháp luật, hành vi đó mới không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Vì
vậy, như trong ví dụ trên, cần đánh giá hành vi của A nguy hiểm hơn, đáng bị
trừng trị nặng hơn so với B - là người không xúi giục C cùng thực hiện hành vi
vi phạm. Để tăng cường tính răn đe và phòng ngừa chung, cần áp dụng tình tiết
tăng nặng quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 của BLHS năm 2015 để nghiêm
trị đối với A - người xúi giục C - người chưa thành niên thực hiện hành vi vi
phạm này.
Ngoài ra, về mặt căn cứ, Toà án nhân dân
tối cao đã hướng dẫn trong một trường hợp tương tự tại Công văn số 64/TANDTC-PC
ngày 03/4/2019 như sau:
“8. Trường hợp
người thực hiện hành vi phạm tội trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do
chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì “người tiêu thụ tài sản biết rõ là do
người khác phạm tội mà có” có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hay không?
Theo quy định tại Điều
323 của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có thì: “1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa
chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Theo hướng dẫn tại Thông
tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30-11-2011
của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng quy định
của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có thì: “1.“Tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài
sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví
dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ...) hoặc do người phạm tội
có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc
họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền
tham ô để mua); 2.“Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có”
là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện
hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được
trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.
Như vậy, theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn nêu trên thì
mặt chủ quan của tội phạm này chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ
tài sản biết tài sản đó do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có, mà
không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp thực
hiện hành vi phạm tội để có được tài sản đó và họ đã bị xử lý hình sự hay chưa.
Do vậy, trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội trước không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng có đủ
chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan của người có hành vi chứa chấp, tiêu
thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ là do người khác phạm tội mà
có thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có.”
Theo tinh thần của hướng dẫn trên, hoàn
toàn có thể áp dụng tương tự để áp dụng tình tiết tăng nặng “Xúi giục người
dưới 18 tuổi phạm tội” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 của BLHS năm
2015 để nghiêm trị đối với A.
Cá
nhân người viết ủng hộ quan điểm xử lý thứ hai để đảm bảo đúng tinh thần của
pháp luật là nghiêm trị với những kẻ xúi giục, dụ dỗ, rủ rê, lôi kéo người khác
phạm tội, đặc biệt khi biết rõ người đó còn là trẻ em (chưa đủ 16 tuổi). Hơn
nữa, việc xử lý như vậy cũng đảm bảo tính công bằng so với những trường hợp
phạm tội khác tương tự nhưng không xúi giục, dụ dỗ, rủ rê, lôi kéo người chưa
đủ 16 tuổi phạm tội.
Trên đây là quan
điểm cá nhân của người viết về vấn đề này, rất mong nhận được phản hồi của các
đồng nghiệp để cùng trao đổi, nâng cao thêm nhận thức.
Đồng Thị Lan Anh – Phòng 7 VKSND thành phố Hải Phòng.