Thời hạn chuẩn bị xét xử trong vụ án dân sự khi Tòa án thụ lý yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoặc yêu cầu phản tố của bị đơn
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là khoảng thời gian để Tòa án thực hiện các hoạt động tố tụng cần
thiết như: thu thập tài liệu, chứng cứ; cấp, tống đạt văn bản tố tụng; tiến
hành hòa giải và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên,
trong thực tiễn áp dụng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự vẫn còn phát sinh một số khó khăn, vướng mắc, bất cập cần được nghiên cứu,
hướng dẫn và hoàn thiện.
Quy định về thời
hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Theo quy định tại Điều
203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
các loại vụ án (trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố
nước ngoài) được quy định cụ thể như sau:
- Thời hạn 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án:
Áp dụng
đối với các vụ án tranh chấp về dân sự quy định tại Điều
26 và các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình
quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Thời hạn 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án: Áp dụng đối với các vụ án
tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều
30 và các vụ án tranh chấp về lao động quy định tại Điều
32 của Bộ luật này.
Đối với vụ án có
tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan, Chánh án
Tòa án có thể xem xét, quyết định gia hạn thời hạn chuẩn
bị xét xử, cụ thể:
- Không quá 02 tháng đối
với vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của
Bộ luật;
- Không quá 01 tháng đối
với vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật.
Một
số vấn đề về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự khi có yêu cầu độc
lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Hiện nay, Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 (Khoản 1 Điều 203) chỉ quy định việc tính lại thời hạn chuẩn bị
xét xử đối với vụ án dân sự đã bị tạm đình chỉ mà Tòa án quyết định tiếp tục
giải quyết. Theo đó, thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết
định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, qua thực tiễn
giải quyết các vụ án dân sự, cho thấy còn tồn tại nhiều trường hợp pháp luật
chưa có quy định cụ thể về việc tính lại thời hạn, nhưng một số Tòa án vẫn áp
dụng tương tự như: khi bổ sung người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia
tố tụng; khi nhập hoặc tách vụ án; khi thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập hoặc
yêu cầu khởi kiện bổ sung.
Trong phạm vi bài viết
này, tác giả tập trung phân tích, trao đổi về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự trong trường hợp có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và
nghĩa vụ quan thông qua việc nghiên cứu một vụ án cụ thể nhằm làm rõ hơn quy
định pháp luật và thực tiễn áp dụng.
Nội dung vụ án: Ngày 20/12/2024,
Tòa án thụ lý vụ án dân sự sơ thẩm về "Tranh chấp hợp đồng tín dụng và thế
chấp tài sản" giữa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần P và bị đơn
là anh Đinh Văn D. Ngày 20/4/2025, Tòa án ra Quyết định gia hạn thời hạn chuẩn
bị xét xử, thời hạn 02 tháng kể từ ngày 21/4/2025. Ngày 24/5/2025, bà Ngô Thị K
(là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) trong vụ án có đơn khởi kiện yêu cầu
độc lập. Ngày 26/5/2025, Tòa án thụ lý yêu cầu độc lập của bà K. Sau khi hòa
giải 02 lần không có kết quả, ngày 22/8/2025, Tòa án đã đưa vụ án trên ra xét
xử theo quy định.
Về thời hạn chuẩn bị xét
xử đối với vụ án nêu trên, hiện nay còn có 2 quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tính đến ngày 22/8/2025,
thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án nêu trên đã hết, bởi theo quy định tại
khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm đối với vụ án dân sự là 04 tháng kể từ ngày thụ lý, gia hạn không quá 02
tháng, tức là từ ngày 20/12/2024 đến hết ngày 21/6/2025. Như vậy, việc Tòa án
đưa vụ án ra xét xử vào ngày 22/8/2025 là không còn trong thời hạn chuẩn bị xét
xử, được xem là vi phạm quy định về thời hạn tố tụng. Mặc dù tại khoản 2 Điều
13 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Tòa án nhân dân tối cao có
quy định trong trường hợp Tòa án nhận được đơn về yêu cầu phản tố của bị đơn
hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết
trong cùng một vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được xác định từ ngày hoàn
thành thủ tục phản tố, yêu cầu độc lập. Tuy nhiên, hiện nay Nghị quyết số
05/2012 đã hết hiệu lực.
Quan điểm của thứ hai cho rằng: Việc Tòa án đưa vụ án ra
xét xử vào ngày 22/8/2025 là đảm bảo đúng thời hạn. Bởi lẽ: Theo hướng dẫn tại
khoản 2 Điều 13 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai "Thủ tục
giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm của Bộ luật Tố tụng dân sự…" thì:
Thời hạn chuẩn bị xét xử được xác định lại kể từ ngày hoàn thành thủ tục yêu
cầu độc lập. Mặc dù, Nghị quyết 05/2012 đã hết hiệu lực nhưng quy định nêu trên
chưa bị bác bỏ, thay thế bởi một văn bản khác. Như vậy, mặc dù hiện nay Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy định cụ
thể về việc tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử khi Tòa án thụ lý yêu cầu phản tố
hoặc yêu cầu độc lập, song trên thực tế, các nhà làm luật đã từng ghi nhận việc
tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử trong những trường hợp này. Do vậy, Tòa án
vẫn căn cứ quy định của Nghị quyết 05/2012 để tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử
đối với vụ án trên là 04 tháng kể từ ngày 26/5/2025.
Tác giả đồng tình với quan
điểm thứ nhất, bởi lẽ: Mặc dù trước đây khoản 2 Điều 13 Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP có hướng dẫn cách tính lại thời hạn trong trường hợp có yêu cầu
phản tố hoặc yêu cầu độc lập, nhưng hiện nay văn bản này đã hết hiệu lực và
chưa có quy định thay thế tương tự trong các văn bản pháp luật hiện hành. Vì
vậy, việc áp dụng hướng dẫn của Nghị quyết này để kéo dài thời hạn chuẩn bị xét
xử là không có căn cứ pháp lý. Có thể dẫn đến việc tự ý kéo dài hoặc áp dụng
quy định đã hết hiệu lực, làm ảnh hưởng đến quyền lợi tố tụng của các bên và
tính nghiêm minh của pháp luật.
Từ những phân tích nêu trên, tác giả kiến nghị
các cơ quan có thẩm quyền sớm nghiên cứu, ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về
việc tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử trong trường hợp Tòa án thụ lý yêu cầu độc
lập, yêu cầu phản tố…, nhằm bảo đảm việc áp dụng pháp luật được thống nhất, chính
xác và phù hợp thực tiễn./.
| |
Nguyễn Văn Hiếu, Lê Thị Vui
Viện kiểm sát nhân dân khu vực 10 |