Bàn về việc tính án tích đối với người phạm tội trong giải quyết vụ án hình sự
Tính án tích đối với người phạm tội là vấn đề thường xuyên phải xem xét trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Tuy nhiên, trên thực tiễn vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về nhận thức và áp dụng chế định này, đến nay chưa có hướng dẫn thống nhất. Do đó, trong khuôn khổ bài viết này, người viết muốn được đưa ra để cùng trao đổi về cách tính án tích trong một số trường hợp cụ thể sau đây:
1. Trường hợp thứ nhất
Nhân thân Nguyễn Văn A có các tiền án như
sau:
- Án số 135/2018/HSST ngày 15/11/2018, Tòa án
nhân dân huyện D, tỉnh N xử phạt 05 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Tài sản
trị giá 2.160.000 đồng). Ra tù ngày 29/01/2019. Thi hành án phí sơ thẩm ngày
10/9/2020.
- Án số 123/2019/HSST ngày 15/10/2019, Tòa án
nhân dân thành phố Q, tỉnh B áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 52
(tái phạm), xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Tài sản trị giá 4.000.000
đồng). Ra tù ngày 08/4/2020. Thi hành án phí sơ thẩm ngày 10/9/2020.
- Án số 15/2022/HS-ST ngày 09/3/2022, Tòa án nhân
dân huyện T, thành phố H áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS xử phạt 15 tháng
tù về tội Trộm cắp tài sản (Tài sản trị giá 1.800.000 đồng). Ra tù ngày
02/3/2023. Đã thi hành án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm, chưa
thi hành nghĩa vụ bồi thường do bị hại chưa có đơn yêu cầu.
Ngày 14/10/2023, A đã lén lút chiếm đoạt
của anh B 01 điện thoại di động, qua định giá, có giá trị 5.000.000 đồng
nên đã bị khởi tố, điều tra về tội Trộm cắp tài sản theo quy định
tại Điều 173 Bộ luật hình sự.
Đối với A, hiện đang có 02 quan điểm đánh
giá về việc xóa án tích đối với các tiền án trên, cụ thể:
Quan
điểm thứ nhất cho rằng, cần áp dụng tinh thần tại điểm a mục
7.3 của Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao, do 02 tiền án đầu đã sử dụng làm tình tiết định
tội đối với lần phạm tội thứ 3 nên không sử dụng để tính tái phạm,
tái phạm nguy hiểm. Do đó, tính đến lần phạm tội này, chỉ có tiền
án thứ 3 (năm 2022) chưa được xóa án tích, hành vi trộm cắp tài sản ngày
14/10/2023 của A chỉ phải chịu tình tiết tăng nặng Tái phạm, theo quy định
tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Quan
điểm thứ hai cho rằng, quy định tại điểm a mục 7.3 của Nghị
quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao chỉ sử dụng để tính đối với lần phạm tội thứ 3 (năm 2022). Theo
đó, 02 tiền án trước đã sử dụng làm tình tiết định tội nên Bản án
số 15/2022/HS-ST ngày 09/3/2022 (đối với lần phạm tội thứ 3) không đánh
giá là tình tiết tăng nặng tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Vì vậy,
hành vi trộm cắp tài sản ngày 14/10/2023 của A đã phạm tội thuộc trường hợp
Tái phạm nguy hiểm, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật
hình sự.
Người viết ủng hộ quan điểm thứ hai,
bởi lẽ: trong trường hợp này, cần hiểu điểm a mục 7.3 của Nghị quyết
01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
chỉ hướng dẫn để áp dụng đối với lần vi phạm năm 2022, không dùng
để đánh giá toàn bộ quá trình nhân thân của người phạm tội. Để xem
xét quá trình nhân thân, đánh giá các tiền án đã xóa hay chưa, cần
căn cứ Điều 7, Điều 70, Điều 73 BLHS 2015 để tính riêng đối với từng bản
án. Do A liên tục phạm tội, cần tính thời hạn xóa án tích của các bản án
là 02 năm bắt đầu từ ngày ra tù 02/3/2023. Đến lần phạm tội lần này,
ngày 14/10/2023, chưa hết 02 năm nên cả 03 tiền án đều chưa được xóa, nên
hành vi trộm cắp tài sản của A đã phạm tội thuộc trường hợp Tái phạm nguy hiểm,
theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Ngoài ra, nếu áp dụng theo quan điểm
thứ nhất, giả sử, C cũng có 02 tiền án
đầu tương tự A nhưng ngày 09/01/2022, C trộm cắp tài sản trị giá 5.000.000 đồng thì sẽ lần phạm
tội thứ 3, C sẽ bị xét xử về tội Trộm cắp tài sản thuộc trường
hợp Tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm
g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp này, C có ý
thức chấp hành pháp luật tốt hơn (chỉ trộm cắp tài sản 03 lần) thì
lại bị xét xử nặng hơn A (trộm cắp tài sản 04 lần). Như vậy, là
không đúng tinh thần nghiêm trị của pháp luật và không đảm bảo tính
công bằng.
Trên thực tiễn, trường hợp tương tự đã
được Toà án nhân dân Tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm và Toà án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm theo hướng huỷ án sơ thẩm do cấp sơ thẩm áp dụng
tình tiết tăng nặng tái phạm là không đúng tính chất, nhân thân bị cáo. (Bản án phúc thẩm số 01/2020/HS-PT ngày
09/01/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương và Bản án Giám đốc thẩm số
13/2022/HS-GĐT ngày 21/6/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng được in
trên trang Công bố bản án của Tòa án nhân dân tối cao).
2. Trường hợp thứ hai
Bị cáo Nguyễn Văn D nhân thân có 02 tiền
án:
- Bản án số 51/2011/HSST ngày 04/8/2011
Tòa án nhân dân quận H, thành phố H xử 30 tháng tù cho hưởng án treo về tội Cướp
giật tài sản.
- Bản án số 180/2016/HSST ngày 23/11/2016
Tòa án nhân dân quận L, thành phố H xử phạt 40 tháng tù, nhận định lần phạm tội
này thuộc trường hợp “tái phạm”, tổng hợp hình phạt với Bản án số 51/2011/HSST,
buộc D phải chấp hành 70 tháng tù.
Nguyễn Văn D ra tù ngày 30/5/2021 và đã chấp
hành hết các quyết định khác của cả 02 bản án.
Ngày 10/9/2023, Nguyễn Văn D lén lút chiếm đoạt tài sản có giá trị 5.000.000
đồng nên đã bị khởi tố, điều tra về tội Trộm cắp tài sản theo quy
định tại Điều 173 Bộ luật hình sự.
Hiện đang có 03 quan điểm đánh giá
về việc xóa án tích đối với Nguyễn Văn D, cụ thể:
Quan
điểm thứ nhất cho rằng: Theo phần Quyết định tổng hợp Bản án năm
2016, hình phạt là 70 tháng tù, như vậy tính đến thời điểm thực hiện hành trộm
cắp tài sản ngày 10/9/2023, D chưa được xóa án tích đối với 02 Bản án nêu trên,
lần phạm tội này của D thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”.
Quan
điểm thứ hai cho rằng: do Bản án năm 2016 đã tổng hợp hình phạt
với Bản án năm 2011 nên để xác định thời hạn xóa án tích đối với D cần phải
theo phần Quyết định tổng hợp hình phạt của Bản án năm 2016 là 70 tháng. Tuy
nhiên, vì Bản án năm 2011 đã được tổng hợp nên chỉ xác định Bản án năm 2016
chưa được xóa án tích, lần phạm tội này D bị áp dụng tình tiết tăng
nặng “tái phạm”.
Quan
điểm thứ ba cho rằng: Bản án năm 2011 do chưa được xóa án tích,
bị can tiếp tục phạm tội và bị tổng hợp hình phạt theo Bản án năm 2016 là 70
tháng, tuy nhiên Bản án năm 2016 chỉ xử phạt bị can 40 tháng tù nên thời hạn
xóa án tích đối với Bản án này là 02 năm. Do đó cho đến thời điểm phạm tội
mới (ngày 10/9/2023), D đã được xóa án tích đối với cả hai Bản án trên, nên lần
phạm tội này không xác định tái phạm hay tái phạm nguy hiểm.
Người viết ủng hộ quan điểm thứ ba,
bởi lẽ: Khoản 1 Điều 73 BLHS quy định: “Thời
hạn xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này căn cứ
vào hình phạt chính đã tuyên”. Điều 56 BLHS quy định về việc tổng hợp
hình phạt chỉ là biện pháp để tạo thuận lợi cho việc thi hành bản án.
Theo đó, cần tính thời hạn xóa án tích căn cứ vào hình phạt chính đã
tuyên với lần phạm tội cụ thể được xét xử trong Bản án đó. Hơn nữa,
theo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo, không nên căn cứ vào kết
quả tổng hợp hình phạt của nhiều bản án để tính thời hạn xóa án tích.
Như vậy đối với Bản án năm 2016, do hình phạt chính tuyên với lần phạm
tội này là 40 tháng tù nên thời hạn xóa án tích là 02 năm. Tính đến thời điểm
phạm tội mới (ngày 10/9/2023), D đã được xóa án tích đối với cả hai Bản án nêu trên,
nên lần phạm tội này không thuộc trường hợp tái phạm hay tái phạm nguy hiểm.
Trên đây là một số trường hợp trên thực
tiễn đang có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau, chưa có sự thống nhất, người
viết đưa ra để cùng trao đổi trên quan điểm cá nhân, rất mong nhận được phản hồi
của các đồng nghiệp để nâng cao thêm nhận thức./.
Đồng Thị Lan Anh – Phòng 7 VKSND thành phố
Hải Phòng.
* Trường hợp thứ ba
Người chấp hành án đã chấp hành xong hình phạt tù, đã đủ thời gian
được xem là đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại Điều
70 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, người này chưa
thi hành hình phạt bổ sung, chưa nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và các quyết định
khác của bản án do không nhận được thông báo và quyết định thi hành án của Cơ
quan thi hành án dân sự. Hoặc trường hợp người này chưa thi hành phần
bồi thường dân sự do trong thời hạn 05 năm kể từ ngày bản án có
hiệu lực pháp luật, người được thi hành án cũng không có đơn yêu cầu
nên Cơ quan thi hành án dân sự cũng không ra quyết định thi hành án đối với
nội dung này. Trên thực tiễn, nhiều đơn vị còn quan điểm khác nhau về
việc trường hợp này có được đương nhiên xóa án tích không?
Quan
điểm thứ nhất cho rằng: Nếu Cơ quan Thi hành án dân
sự (THADS) chưa nhận được bản án để thụ lý hồ sơ để ra thông báo và quyết định
thi hành án theo thủ tục chung, hoặc người được thi hành án cũng không
có đơn yêu cầu nên Cơ quan thi hành án dân sự cũng không ra quyết định thi
hành án đối với nội dung này mà đã hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án
có hiệu lực pháp luật, bị can, bị cáo, cần đánh giá là được đương nhiên xóa án
tích theo quy định tại Điều 60 và Điều 70 của Bộ luật Hình sự vì bản án đã
hết thời hiệu thi hành.
Quan
điểm thứ hai cho rằng: Cơ quan THADS đã thụ lý hồ sơ để
ra thông báo và quyết định thi hành án theo thủ tục chung, nhưng người bị kết
án (sau này là bị can, bị cáo trong một vụ án mới) không nhận được thông báo và
quyết định thi hành án của Cơ quan thi hành án dân sự nên chưa chấp hành xong
hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án. Trong trường hợp này, cần
đánh giá là người bị kết án không đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại Điều
70 của Bộ luật Hình sự theo đúng hướng dẫn tại Công văn số 64 ngày 03/4/2019 của
Tòa án nhân dân tối cao.
Theo quan điểm của người viết, Pháp luật thi hành án dân sự
quy định nhiều phương thức thi hành để người phải thi hành án có quyền lựa
chọn như: tự nguyện thi hành, thỏa thuận thi hành án hoặc nhờ người thân nộp
thay. Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự, trong thời hạn 05 năm, kể từ
ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải
thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết
định thi hành án. Như vậy, Luật Thi hành án dân sự đã dành nhiều thời gian để
người phải thi hành án dân sự chủ động yêu cầu thi hành án. Mặt khác, Điều 70 của Bộ luật Hình sự quy định đủ các điều kiện đương
nhiên được xóa án tích, trong đó có điều kiện: người bị kết án nếu từ khi chấp
hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách của án treo, người đó đã
chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án. Như vậy, điều
luật không loại trừ việc người bị kết án chưa chấp xong hình phạt bổ sung và
các quyết định khác của bản án với bất kỳ lý do gì. Do vậy, nếu hết thời hiệu
yêu cầu thi hành án dân sự mà người bị kết án chưa thực hiện xong nghĩa vụ thì cần
coi là chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án.
Trong trường hợp này người bị kết án không đương nhiên được xóa án tích theo
quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự. Những nội
dung này đã được Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn tại Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 và vẫn sử dụng để trả
lời kiến nghị của cử tri gửi tới Quốc hội trước kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa
XV, đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn mới hơn.
Tuy nhiên trong những trường hợp chưa chấp hành xong các quyết định
khác của bản án, cần lưu ý một trường hợp loại trừ đó là: Theo quy định tại
Điều 6 và điểm a khoản 1 Điều 7a Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ
sung năm 2014) thì người bị kết án (phải thi hành án) và bị hại (được thi hành
án) có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều
cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thỏa
thuận được công nhận. Do vậy, trong trường hợp mặc dù đã hết thời hiệu yêu cầu
thi hành án, bị hại không có đơn yêu cầu thi hành án nhưng giữa người bị kết án
và bị hại đã có thỏa thuận thi hành án về việc người bị kết án, không phải thi
hành khoản tiền bồi thường cho bị hại theo bản án, quyết định của Tòa án thì
người bị kết án không phải thi hành khoản tiền này nữa và họ đương nhiên được xóa
án tích theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017). Tuy nhiên, để đảm bảo chặt chẽ, trong trường hợp này, để
có cơ sở xem xét, đánh giá, hồ sơ cần thu thập đầy đủ tài liệu gồm
lời khai của các bên liên quan và văn bản thỏa thuận, nêu rõ thời gian, địa
điểm, nội dung thỏa thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia thỏa
thuận theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ.